Tặng đất cho con, bố mẹ có cần chữ ký đồng thuận của những người con khác?
Nội dung chính
Bố mẹ tặng cho đất con thì có cần làm hợp đồng tặng cho đất không?
Theo quy định tại Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Đối với tài sản tặng cho là bất động sản thì phải được thành lập thành văn bản có công chứng, chứng thực phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. Bên cạnh đó, hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.
Như vậy, để việc tặng cho đất từ bố mẹ sang con hợp pháp và đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, hợp đồng tặng cho cần được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực theo đúng quy định pháp luật. Sau đó, các bên cần thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan có thẩm quyền để hoàn tất quá trình chuyển quyền sở hữu. Việc này không chỉ đảm bảo giá trị pháp lý của hợp đồng mà còn tránh được các tranh chấp phát sinh trong tương lai.
Tặng đất cho con, bố mẹ có cần chữ ký đồng thuận của những người con khác? (Hình từ Internet)
Tặng đất cho con, bố mẹ có cần chữ ký đồng thuận của những người con khác?
Trường hợp 1: Đất là tài sản chung của bố mẹ
Căn cứ tại khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định vợ chồng bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
Tải sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau đây: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Cụ thể, quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn sẽ là tài sản chung, trừ khi một trong hai vợ chồng nhận thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng của mình.
Theo quy định tại Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, vợ chồng sẽ thoả thuận về việc định đoạt, sử dụng tài sản chung là bất động sản phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng.
Vì vậy, trong trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của bố mẹ, khi bố mẹ tặng đất cho con, việc thực hiện giao dịch này sẽ phụ thuộc vào sự thống nhất giữa bố và mẹ. Cả hai bên cần có sự đồng thuận về việc tặng cho tài sản và không bắt buộc phải xin ý kiến hay sự đồng ý của bất kỳ ai khác, kể cả các con khác trong gia đình. Theo đó, việc tặng đất cho con được thực hiện mà không cần chữ ký của các thành viên khác, miễn là việc định đoạt tài sản chung được thực hiện hợp pháp và phù hợp với thỏa thuận giữa bố mẹ.
Trường hợp 2: Đất là tài sản chung của cả hộ gia đình gồm bố mẹ và các người con
Tài sản chung của hộ gia đình là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt của tất cả các thành viên trong hộ gia đình đó. Cụ thể, trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất nếu ghi tên là "hộ ông/hộ bà/hộ ông bà/hộ..." thì nhà, đất này được coi là thuộc sở hữu chung của toàn bộ hộ gia đình. Căn cứ khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai 2024 quy định hộ gia đình sử dụng đất như sau:
Những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
Đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành
Căn cứ khoản 2 Điều 212 Bộ Luật dân sự 2015 quy định việc định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Nếu tài sản là bất động sản phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Vì vậy, việc chuyển quyền sử dụng đất từ hộ gia đình sang cá nhân chỉ có thể thực hiện khi được sự đồng ý của tất cả các thành viên đủ điều kiện trong gia đình.
Tóm lại, dù đất là tài sản chung của vợ chồng hay của cả hộ gia đình, việc định đoạt phải dựa trên sự đồng thuận của các bên liên quan, tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp và tránh tranh chấp trong gia đình. Đối chiếu với trường hợp bố mẹ tặng đất cho con sẽ cần chữ ký đồng thuận đối với trường hợp đất thuộc sở hữu chung của các thành viên hộ gia đình.
Nên để lại thừa kế hay tặng đất cho con?
Tặng cho tài sản:
Nếu quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bố/ mẹ hay là tài sản chung thì quyền tặng cho tài sản cho bất kỳ người con nào mà không bị pháp luật cấm hay hạn chế. Tuy nhiên, việc này sẽ dẫn đến sự ưu tiên một hoặc một số người con, dẫn đến sự tổn thương cho những người con khác. So với thừa kế, hơn hết là thừa kế theo pháp luật thì việc tặng cho tài sản này ít xảy ra tranh chấp giữa những người con hơn vì quyền tặng cho đều do cha mẹ quyết định.
Có thể tặng cho đi kèm những điều kiện (không trái với quy định của luật). Ví dụ như sự tặng cho tài sản này để con cái thực hiện các nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ…
Thừa kế tài sản:
Thừa kế theo pháp luật: Nếu cha mẹ không có sự thiên vị cho một hay một số người con thì việc chia thừa kế theo pháp luật luôn bảo đảm tính công bằng
Cha mẹ có quyền để lại toàn bộ quyền sử dụng đất của mình cho một người con, trừ trường hợp con dưới 18 tuổi hoặc trên 18 tuổi nhưng mất khả năng lao động (người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc).
So với việc tặng cho tài sản mà không có điều kiện (như yêu cầu con cái chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ), thừa kế theo di chúc có ưu điểm là cha mẹ có thể thay đổi nội dung di chúc nếu con cái không thực hiện đúng nghĩa vụ hoặc bổn phận. Điều này có thể bao gồm việc thay đổi người thừa kế, điều chỉnh diện tích tài sản được chia cho từng người thừa kế, nhằm bảo vệ quyền lợi của cha mẹ trong trường hợp con không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ.
Việc tặng cho tài sản và thừa kế tài sản đều là quyền của cha mẹ, nhưng mỗi hình thức có những đặc điểm riêng. Tặng cho tài sản cho phép cha mẹ quyết định trực tiếp người nhận, nhưng có thể gây bất bình giữa các con nếu có sự ưu tiên. Trong khi đó, thừa kế theo pháp luật đảm bảo công bằng, nhưng thừa kế theo di chúc linh hoạt hơn, cho phép cha mẹ thay đổi nếu con không thực hiện đúng nghĩa vụ. Cả hai hình thức đều có ưu điểm và hạn chế riêng, nhưng đều cần sự minh bạch để tránh tranh chấp về sau.