Cho mượn nhà đất hoặc tài sản gắn liền với đất có bắt buộc lập hợp đồng không?
Nội dung chính
Cho mượn nhà đất hoặc tài sản gắn liền với đất có bắt buộc lập hợp đồng không?
Căn cứ theo Điều 494 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được.
Bên cạnh đó, tại Điều 495 Bộ luật Dân sự 2015, đối tượng của hợp đồng mượn là tài sản không tiêu hao, có thể hiểu rõ hơn là tài sản sau khi sử dụng vẫn giữ được hình dạng, tính chất và công dụng ban đầu, như nhà ở, đất đai, xe cộ, máy móc,...
Ngược lại, tài sản tiêu hao là loại chỉ sử dụng được một lần, sau khi sử dụng sẽ mất đi hoặc không còn giá trị sử dụng như ban đầu (ví dụ: giấy in, mực in, vật tư y tế...).
Như vậy, pháp luật không bắt buộc việc cho mượn nhà đất hoặc tài sản gắn liền với đất phải lập hợp đồng bằng văn bản, các bên có thể thỏa thuận miệng. Tuy nhiên nếu muốn bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên thì có thể lựa chọn giao kết hợp đồng mượn tài sản bằng văn bản.

Cho mượn nhà đất hoặc tài sản gắn liền với đất có bắt buộc lập hợp đồng không? (Hình từ Internet)
Cho mượn đất sau 20 năm đòi lại thì có phải trả phí cho người mượn không?
Căn cứ Điều Điều 499 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền đòi lại đất có thể hiểu như sau:
Bên cho mượn có quyền lấy lại tài sản sau khi bên mượn đã đạt được mục đích sử dụng, hoặc khi có nhu cầu sử dụng đột xuất, cấp bách với điều kiện phải báo trước một thời gian hợp lý. Ngoài ra, nếu bên mượn sử dụng đất sai mục đích, cho người khác mượn lại mà không được đồng ý, hoặc gây thiệt hại cho tài sản, thì bên cho mượn có quyền đòi lại đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 497 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chi phí, công sức trông coi đất:
Nếu các bên có thỏa thuận về việc thanh toán chi phí hợp lý cho việc sửa chữa, bảo quản hoặc làm tăng giá trị tài sản mượn, thì bên cho mượn phải hoàn trả chi phí đó.
Ngược lại, nếu không có thỏa thuận trước, người mượn đất không có quyền yêu cầu bồi thường hay trả công cho việc trông coi hoặc sử dụng tài sản trong thời gian mượn.
Như vậy, sau 20 năm người cho mượn đất có quyền đòi lại đất, và chỉ phải trả chi phí hợp lý (nếu có thỏa thuận trước); còn nếu không có thỏa thuận thì không phải bồi thường cho người mượn.
Quyền và nghĩa vụ của các bên khi giao kết hợp đồng mượn tài sản được quy định ra sao?
Nghĩa vụ của bên mượn tài sản được quy định tại Điều 496 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.
- Không được cho người khác mượn lại, nếu không có sự đồng ý của bên cho mượn.
- Trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được.
- Bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản mượn.
- Bên mượn tài sản phải chịu rủi ro đối với tài sản mượn trong thời gian chậm trả.
Quyền của bên mượn tài sản được quy định tại Điều 497 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Được sử dụng tài sản mượn theo đúng công dụng của tài sản và đúng mục đích đã thỏa thuận.
- Yêu cầu bên cho mượn thanh toán chi phí hợp lý về việc sửa chữa hoặc làm tăng giá trị tài sản mượn, nếu có thỏa thuận.
- Không phải chịu trách nhiệm về những hao mòn tự nhiên của tài sản mượn.
Nghĩa vụ của bên cho mượn tài sản quy định tại Điều 498 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Cung cấp thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản và khuyết tật của tài sản, nếu có.
- Thanh toán cho bên mượn chi phí sửa chữa, chi phí làm tăng giá trị tài sản, nếu có thỏa thuận.
- Bồi thường thiệt hại cho bên mượn nếu biết tài sản có khuyết tật mà không báo cho bên mượn biết dẫn đến gây thiệt hại cho bên mượn, trừ những khuyết tật mà bên mượn biết hoặc phải biết.
Quyền của bên cho mượn tài sản quy định tại Điều 499 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:
- Đòi lại tài sản ngay sau khi bên mượn đạt được mục đích nếu không có thỏa thuận về thời hạn mượn; nếu bên cho mượn có nhu cầu đột xuất và cấp bách cần sử dụng tài sản cho mượn thì được đòi lại tài sản đó mặc dù bên mượn chưa đạt được mục đích, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý.
- Đòi lại tài sản khi bên mượn sử dụng không đúng mục đích, công dụng, không đúng cách thức đã thỏa thuận hoặc cho người khác mượn lại mà không có sự đồng ý của bên cho mượn.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản do bên mượn gây ra.
            
                        
                            
                    
            