Màu nào trong tranh dân gian Đông Hồ được làm từ sỏi son?

Màu nào trong tranh dân gian Đông Hồ được làm từ sỏi son? Có bao nhiêu loại hình di sản văn hóa phi vật thể? bao gồm những loại nào?

Nội dung chính

    Màu nào trong tranh dân gian Đông Hồ được làm từ sỏi son?

    Trong tranh dân gian Đông Hồ, màu đỏ được làm từ sỏi son, một loại đá có màu đỏ tươi, thường được tìm thấy ở các vùng núi đá tại Việt Nam. Đây là nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên, được các nghệ nhân truyền thống sử dụng để tạo nên sắc đỏ rực rỡ, biểu tượng của sự may mắn, hạnh phúc và phú quý.

    Quy trình tạo màu đỏ từ sỏi son đòi hỏi sự công phu và tỉ mỉ. Trước tiên, các nghệ nhân giã nhỏ sỏi son, sau đó nghiền thành bột mịn. Tiếp theo, bột màu này được trộn với hồ nếp – một loại keo tự nhiên giúp màu bám chắc trên bề mặt giấy dó. Nhờ vào cách chế tác này, màu đỏ trong tranh Đông Hồ có độ bền cao, không phai theo thời gian và mang lại cảm giác rực rỡ nhưng vẫn hài hòa, tự nhiên.

    Màu đỏ từ sỏi son thường xuất hiện trong các bức tranh có ý nghĩa may mắn như “Đám cưới chuột”, “Vinh hoa”, “Phú quý”, hay các hình ảnh thể hiện sự sung túc như áo mũ của các nhân vật, mặt trời, hoa văn trang trí. Trong đời sống văn hóa Việt Nam, sắc đỏ còn tượng trưng cho sự thịnh vượng, hạnh phúc, nên rất được ưa chuộng trong các bức tranh treo ngày Tết.

    Việc sử dụng sỏi son để làm màu đỏ không chỉ thể hiện sự sáng tạo của các nghệ nhân Đông Hồ trong việc tận dụng nguyên liệu thiên nhiên, mà còn góp phần gìn giữ và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống độc đáo của Việt Nam.

    Màu nào trong tranh dân gian Đông Hồ được làm từ sỏi son?

    Màu nào trong tranh dân gian Đông Hồ được làm từ sỏi son? (Hình từ Internet)

    Có bao nhiêu loại hình di sản văn hóa phi vật thể? bao gồm những loại nào?

    Căn cứ theo Điều 10 Luật Di sản văn hóa 2024 quy định các loại hình di sản văn hóa phi vật thể như sau:

    Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể
    Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các loại hình sau đây:
    1. Biểu đạt và truyền thống truyền khẩu gồm các hình thức thể hiện thông tin bằng ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, ký tự và ngữ văn dân gian;
    2. Nghệ thuật trình diễn dân gian gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu truyền thống và các hình thức trình diễn dân gian khác;
    3. Tập quán xã hội và tín ngưỡng gồm các thực hành thường xuyên, ổn định, thể hiện quan niệm, niềm tin của cộng đồng, thông qua các lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống mang bản sắc văn hóa của cộng đồng chủ thể;
    4. Lễ hội truyền thống gồm các thực hành nghi lễ và sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng đồng, được thực hiện theo chu kỳ tại không gian văn hóa liên quan;
    5. Tri thức dân gian gồm tri thức về tự nhiên và vũ trụ, sức khỏe và đời sống con người, lao động, sản xuất, phòng bệnh, chữa bệnh, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác;
    6. Nghề thủ công truyền thống gồm các thực hành thủ công bằng tri thức, kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết, nghệ thuật cùng với công cụ, đồ vật, đồ tạo tác, nguyên vật liệu tự nhiên, tạo ra các sản phẩm mang bản sắc văn hóa của cộng đồng chủ thể.

    Căn cứ theo như quy định trên thì, di sản văn hóa phi vật thể bao gồm sáu loại hình sau:

    (1) Biểu đạt và truyền thống truyền khẩu: Bao gồm các hình thức thể hiện thông tin bằng ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết, ký tự và ngữ văn dân gian. Đây là phương tiện quan trọng để truyền tải tri thức, kinh nghiệm sống, giá trị đạo đức và bản sắc văn hóa của cộng đồng qua nhiều thế hệ.

    (2) Nghệ thuật trình diễn dân gian: Gồm các loại hình âm nhạc, múa, hát, sân khấu truyền thống và các hình thức trình diễn dân gian khác. Những loại hình này phản ánh sinh hoạt văn hóa, tâm tư, tình cảm của cộng đồng, được lưu truyền và phát triển theo thời gian.

    (3) Tập quán xã hội và tín ngưỡng: Gồm các thực hành thường xuyên, ổn định, thể hiện quan niệm, niềm tin của cộng đồng. Các tập quán này được duy trì qua các nghi lễ, phong tục gắn với đời sống tinh thần và bản sắc văn hóa riêng của từng cộng đồng chủ thể.

    (4) Lễ hội truyền thống: Bao gồm các thực hành nghi lễ và sinh hoạt văn hóa dân gian của cộng đồng, được thực hiện theo chu kỳ tại không gian văn hóa liên quan. Lễ hội truyền thống thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, thần linh và những nhân vật có công với đất nước.

    (5) Tri thức dân gian: Gồm các tri thức về tự nhiên, vũ trụ, sức khỏe, đời sống con người, lao động, sản xuất, phòng bệnh, chữa bệnh, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác. Đây là nguồn tài sản quý báu, giúp cộng đồng thích ứng với môi trường sống và phát triển bền vững.

    (6) Nghề thủ công truyền thống: Bao gồm các thực hành thủ công dựa trên tri thức, kỹ năng, kỹ thuật, bí quyết, nghệ thuật cùng với công cụ, nguyên vật liệu tự nhiên, tạo ra các sản phẩm mang bản sắc văn hóa của cộng đồng chủ thể. Nghề thủ công truyền thống không chỉ có giá trị kinh tế mà còn thể hiện sự sáng tạo và tinh hoa văn hóa dân tộc.

    Lưu ý: Luật Di sản văn hóa 2024 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2025.

    Chuyên viên pháp lý Đào Thị Mỹ Hồng
    saved-content
    unsaved-content
    11