Vua nào dựng nước Vạn Xuân? Giải thưởng Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp tỉnh?
Nội dung chính
Vua nào dựng nước Vạn Xuân? Giải thưởng Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp tỉnh?
(1) Vua nào dựng nước Vạn Xuân?
Vua Lý Nam Đế (tên thật là Lý Bí) là người đã dựng nước Vạn Xuân vào năm 544, sau khi khởi nghĩa đánh bại chính quyền đô hộ nhà Lương. Ông lên ngôi, lấy niên hiệu Thiên Đức, đặt tên nước là Vạn Xuân với mong muốn đất nước trường tồn mãi mãi.
Đây là câu hỏi tham khảo trong Đề thi Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp tỉnh.
(2) Giải thưởng Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp tỉnh?
Giải thưởng trong Kỳ thi Hội của sân chơi Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp Tỉnh năm học 2024 – 2025 được Ban Tổ chức xếp loại và cấp giấy chứng nhận trực tuyến cho học sinh dựa trên thang điểm như sau:
- Giải Nhất: 290 – 300 điểm
- Giải Nhì: 270 – 280 điểm
- Giải Ba: 250 – 260 điểm
- Giải Khuyến Khích: 220 – 240 điểm
Danh sách học sinh đạt giải sẽ được công bố trên tài khoản quản lý các cấp và trang web chính thức của chương trình.
Sở Giáo dục và Đào tạo các Tỉnh/Thành phố tổ chức Kì thi Hội cấp giấy chứng nhận/giấy khen và quyết định khen thưởng cho học sinh theo quy định chung của từng Tỉnh/Thành phố.
Vua nào dựng nước Vạn Xuân? Giải thưởng Trạng Nguyên Tiếng Việt cấp tỉnh? (Hình từ Internet)
Đề kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt lớp 5 thiết kế có bao nhiêu mức?
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 7 Quy định về đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư 27/2020/TT-BGDĐT quy định như sau:
Đánh giá định kỳ
1. Đánh giá định kỳ về nội dung học tập các môn học, hoạt động giáo dục
a) Vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học, giáo viên dạy môn học căn cứ vào quá trình đánh giá thường xuyên và yêu cầu cần đạt, biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học, hoạt động giáo dục để đánh giá học sinh đối với từng môn học, hoạt động giáo dục theo các mức sau:
- Hoàn thành tốt: thực hiện tốt các yêu cầu học tập và thường xuyên có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
- Hoàn thành: thực hiện được các yêu cầu học tập và có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục;
- Chưa hoàn thành: chưa thực hiện được một số yêu cầu học tập hoặc chưa có biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học hoặc hoạt động giáo dục.
b) Vào cuối học kỳ I và cuối năm học, đối với các môn học bắt buộc: Tiếng Việt, Toán, Ngoại ngữ 1, Lịch sử và Địa lý, Khoa học, Tin học và Công nghệ có bài kiểm tra định kỳ;
Đối với lớp 4, lớp 5, có thêm bài kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt, môn Toán vào giữa học kỳ I và giữa học kỳ II.
c) Đề kiểm tra định kỳ phù hợp với yêu cầu cần đạt và các biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo các mức như sau:
- Mức 1: Nhận biết, nhắc lại hoặc mô tả được nội dung đã học và áp dụng trực tiếp để giải quyết một số tình huống, vấn đề quen thuộc trong học tập;
- Mức 2: Kết nối, sắp xếp được một số nội dung đã học để giải quyết vấn đề có nội dung tương tự;
- Mức 3: Vận dụng các nội dung đã học để giải quyết một số vấn đề mới hoặc đưa ra những phản hồi hợp lý trong học tập và cuộc sống.
d) Bài kiểm tra được giáo viên sửa lỗi, nhận xét, cho điểm theo thang điểm 10, không cho điểm thập phân và được trả lại cho học sinh. Điểm của bài kiểm tra định kỳ không dùng để so sánh học sinh này với học sinh khác. Nếu kết quả bài kiểm tra cuối học kỳ I và cuối năm học bất thường so với đánh giá thường xuyên, giáo viên đề xuất với nhà trường có thể cho học sinh làm bài kiểm tra khác để đánh giá đúng kết quả học tập của học sinh.
2. Đánh giá định kỳ về sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực
Vào giữa học kỳ I, cuối học kỳ I, giữa học kỳ II và cuối năm học, giáo viên chủ nhiệm phối hợp với các giáo viên dạy cùng lớp, thông qua các nhận xét, các biểu hiện trong quá trình đánh giá thường xuyên về sự hình thành và phát triển từng phẩm chất chủ yếu, năng lực cốt lõi của mỗi học sinh, đánh giá theo các mức sau:
a) Tốt: Đáp ứng tốt yêu cầu giáo dục, biểu hiện rõ và thường xuyên.
b) Đạt: Đáp ứng được yêu cầu giáo dục, biểu hiện nhưng chưa thường xuyên.
c) Cần cố gắng: Chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu giáo dục, biểu hiện chưa rõ.
Như vậy, đề kiểm tra định kỳ môn Tiếng Việt học sinh tiểu học lớp 5 thiết kế phù hợp với yêu cầu cần đạt và các biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của môn học, gồm các câu hỏi, bài tập được thiết kế theo 03 mức như trên.