Trong giai đoạn 1975 đến 1985 Việt Nam đã tham gia?
Nội dung chính
Trong giai đoạn 1975 đến 1985 Việt Nam đã tham gia?
Câu hỏi: Trong giai đoạn 1975 đến 1985 Việt Nam đã tham gia?
A. Phong trào không liên kết.
B. Cộng đồng văn hóa ASEAN.
C. Hiệp hội các quốc gia độc lập.
D. Cộng đồng kinh tế ASEAN.
Giải thích chi tiết:
Trong giai đoạn 1975 đến 1985, Việt Nam đã tham gia Phong trào không liên kết (Non-Aligned Movement - NAM). Phong trào không liên kết được thành lập vào năm 1961 trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, với mục tiêu chủ yếu là duy trì một chính sách đối ngoại độc lập, không liên kết với bất kỳ một trong hai khối quyền lực lớn - khối phương Tây do Mỹ lãnh đạo và khối phương Đông do Liên Xô dẫn đầu. Phong trào này chủ yếu gồm các quốc gia vừa giành được độc lập, các quốc gia đang phát triển và các quốc gia không tham gia vào các liên minh quân sự lớn.
Việt Nam đã gia nhập Phong trào không liên kết vào năm 1976, sau khi đất nước thống nhất. Lúc này, Việt Nam đang tìm kiếm sự hỗ trợ quốc tế để củng cố nền độc lập và phát triển đất nước. Việc gia nhập Phong trào không liên kết thể hiện chính sách đối ngoại độc lập và hòa bình của Việt Nam, đồng thời tăng cường quan hệ với các quốc gia có cùng chí hướng.
Phong trào này đã giúp Việt Nam duy trì chính sách đối ngoại không phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào và bảo vệ quyền lợi quốc gia trong bối cảnh quốc tế đầy biến động thời kỳ sau chiến tranh. Việt Nam đã tích cực tham gia vào các hoạt động và hội nghị của phong trào, đồng thời cũng vận động cho các vấn đề liên quan đến hòa bình, phát triển và tự do dân tộc.
Vì vậy, phong trào không liên kết là tổ chức chính mà Việt Nam tham gia trong giai đoạn 1975 đến 1985, phản ánh sự chủ động trong chính sách đối ngoại của đất nước trong thời kỳ đầu sau thống nhất.
Trong giai đoạn 1975 đến 1985 Việt Nam đã tham gia? (Hình từ Internet)
Trình tự xây dựng kế hoạch đối ngoại hàng năm như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 7 Quy chế Quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ Tư pháp kèm theo Quyết định 2638/QĐ-BTP:
Trình tự xây dựng kế hoạch đối ngoại hàng năm như sau:
- Chậm nhất là ngày 15 tháng 8 hàng năm, trên cơ sở hướng dẫn của Vụ Hợp tác quốc tế, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đề xuất việc tổ chức đoàn ra (theo Mẫu tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Quy chế này), đoàn vào; hội nghị, hội thảo quốc tế; các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế dự kiến ký kết, gửi Vụ Hợp tác quốc tế để tổng hợp.
- Chậm nhất là ngày 15 tháng 9 hàng năm, trên cơ sở dự kiến ngân sách bố trí cho hoạt động đối ngoại, Vụ Hợp tác quốc tế xây dựng dự thảo kế hoạch đối ngoại, lấy ý kiến Vụ Tổ chức cán bộ, Văn phòng Bộ và các đơn vị liên quan. Các đơn vị có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị.
- Chậm nhất là ngày 15 tháng 10 hàng năm, Vụ Hợp tác quốc tế tổng hợp ý kiến các đơn vị, gửi Cục Kế hoạch - Tài chính để thẩm tra theo Quy chế xây dựng kế hoạch của Bộ Tư pháp.
- Chậm nhất là ngày 30 tháng 10 hàng năm, trên cơ sở ý kiến thẩm tra của Cục Kế hoạch - Tài chính, Vụ Hợp tác quốc tế hoàn thiện dự thảo kế hoạch đối ngoại, báo cáo Thứ trưởng phụ trách hợp tác quốc tế và Bộ trưởng cho ý kiến, trình Ban cán sự cho chủ trương.
- Sau khi có chủ trương của Ban cán sự, Vụ Hợp tác quốc tế trình Thứ trưởng phụ trách hợp tác quốc tế ký ban hành kế hoạch đối ngoại cấp Vụ và ký dự thảo kế hoạch đối ngoại cấp Bộ gửi Bộ Ngoại giao chậm nhất là ngày 30 tháng 11 hàng năm để tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.