10:52 - 19/12/2024

Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì? Ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học nào?

Theo quy định hiện nay ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học nào? Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì?

Nội dung chính


    Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì?

    Ngôi kể thứ nhất là một công cụ hiệu quả để tác giả tạo ra những câu chuyện sinh động, hấp dẫn. Việc lựa chọn ngôi kể thứ nhất phụ thuộc vào mục đích của tác giả và thể loại văn học.

    Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì?

    Ngôi kể thứ nhất: Kể chuyện từ góc nhìn của "tôi"

    Ngôi kể thứ nhất là một trong những ngôi kể phổ biến trong văn học. Khi sử dụng ngôi kể này, người kể chuyện sẽ xưng "tôi" hoặc "chúng tôi" để trực tiếp kể lại câu chuyện từ góc nhìn của chính mình. Điều này tạo ra một cảm giác chân thực, gần gũi và sống động cho câu chuyện.

    Đặc điểm của ngôi kể thứ nhất:

    Người kể là nhân vật: Người kể chuyện thường là một nhân vật trong câu chuyện, trực tiếp tham gia vào các sự kiện và thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình.

    Góc nhìn hạn chế: Vì chỉ kể lại những gì mình nhìn thấy, nghe thấy và trải nghiệm nên thông tin trong câu chuyện thường bị giới hạn bởi góc nhìn của người kể.

    Tạo cảm giác chân thực: Ngôi kể thứ nhất giúp người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật, hình dung rõ nét về tâm lý, suy nghĩ và hành động của họ.

    Tăng tính chủ quan: Câu chuyện được kể theo quan điểm cá nhân của người kể, có thể có những thiên lệch hoặc sai sót.

    Tác dụng của ngôi kể thứ nhất:

    Tăng tính chân thực: Giúp người đọc cảm thấy như đang trực tiếp tham gia vào câu chuyện, đồng cảm sâu sắc với nhân vật.

    Tạo không khí thân mật: Tạo cảm giác gần gũi, thân thiết giữa người kể và người đọc.

    Thể hiện rõ nét tâm lý nhân vật: Giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội tâm, suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật.

    Tạo ra hiệu ứng bất ngờ: Có thể tạo ra những tình huống bất ngờ, gây hứng thú cho người đọc.

    Tăng tính nghệ thuật: Ngôi kể thứ nhất giúp tác giả thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ, tạo ra những hình ảnh, âm thanh sống động.

    Ví dụ:

    "Tôi đứng trên bờ biển, nhìn ra xa. Cát dưới chân ấm áp, hơi mặn của biển hòa quyện với gió. Tôi cảm thấy thật bình yên. Những con sóng vỗ rì rào vào bờ như một bản nhạc du dương. Tôi nhắm mắt lại, tận hưởng khoảnh khắc này."

    Trong đoạn văn trên, người kể sử dụng ngôi kể thứ nhất để chia sẻ cảm xúc của mình khi đứng trước biển. Nhờ đó, người đọc có thể hình dung rõ nét về khung cảnh và cảm xúc của nhân vật.

    *Lưu ý: Thông tin về tác dụng của ngôi kể thứ nhất chỉ mang tính chất tham khảo./.

    Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì? Ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học nào?

    Tác dụng của ngôi kể thứ nhất là gì? Ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học nào? (Hình từ Internet)

    Ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học nào?

    Căn cứ Mục 5 Chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT quy định về thời lượng thực hiện chương trình như sau:

    1.2. Kiến thức

    a) Tiếng Việt

    - Các mạch kiến thức tiếng Việt

    + Ngữ âm và chữ viết: âm, chữ, dấu thanh, quy tắc chính tả (chỉ học ở cấp tiểu học).

    + Từ vựng: mở rộng vốn từ, nghĩa của từ ngữ và cách dùng, cấu tạo từ, quan hệ nghĩa giữa các từ ngữ.

    + Ngữ pháp: dấu câu, từ loại, cấu trúc ngữ đoạn và cấu trúc câu, các kiểu câu và cách dùng.

    + Hoạt động giao tiếp: biện pháp tu từ, đoạn văn, văn bản và các kiểu văn bản, một số vấn đề về phong cách ngôn ngữ và ngữ dụng.

    + Sự phát triển của ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ: từ mượn, từ ngữ mới và nghĩa mới của từ ngữ, chữ viết tiếng Việt, các biến thể ngôn ngữ phân biệt theo phạm vi địa phương, xã hội, chức năng, trong đó có văn bản đa phương thức (ngôn ngữ trong sự kết hợp với hình ảnh, kí hiệu, số liệu, biểu đồ, sơ đồ,...) như là một biến thể của giao tiếp ngôn ngữ.

    - Phân bổ các mạch kiến thức tiếng Việt ở từng cấp học

    + Cấp tiểu học: một số hiểu biết sơ giản về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp và biến thể ngôn ngữ (ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, số liệu); có khả năng nhận biết, bước đầu hiểu được các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan và vận dụng trong giao tiếp.

    + Cấp trung học cơ sở: những hiểu biết cơ bản về từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp, sự phát triển ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ (từ ngữ địa phương, biệt ngữ xã hội; ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, số liệu, biểu đồ, sơ đồ) giúp học sinh có khả năng hiểu các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan và vận dụng trong giao tiếp.

    + Cấp trung học phổ thông: Một số hiểu biết nâng cao về tiếng Việt giúp học sinh hiểu, phân tích và bước đầu biết đánh giá các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan, chú trọng những cách diễn đạt sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ trong các báo cáo nghiên cứu và trong giao tiếp.

    b) Văn học

    - Các mạch kiến thức văn học

    + Lí luận văn học: một số vấn đề về lí luận văn học thiết thực, có liên quan nhiều đến đọc hiểu văn bản văn học.

    + Thể loại văn học: truyện, thơ, kịch, kí và một số thể loại tiêu biểu.

    + Các yếu tố của văn bản văn học: câu chuyện, cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần, nhịp,...

    + Lịch sử văn học: một số tác giả lớn và những nét khái quát về lịch sử văn học Việt Nam được tổng kết ở cuối cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông.

    - Phân bổ các mạch kiến thức văn học từng cấp học

    + Cấp tiểu học: một số hiểu biết sơ giản về truyện và thơ, văn bản hư cấu và văn bản phi hư cấu; nhân vật trong văn bản văn học, cốt truyện, thời gian, không gian, từ ngữ, vần thơ, nhịp thơ, hình ảnh, lời nhân vật, đối thoại.

    + Cấp trung học cơ sở: những hiểu biết về các thể loại (truyện dân gian, truyện ngắn, thơ trữ tình và thơ tự sự; kí trữ tình và kí tự sự; tiểu thuyết và truyện thơ Nôm, thơ cách luật và thơ tự do, bi kịch và hài kịch); chủ thể trữ tình và nhân vật trữ tình; giá trị biểu cảm, giá trị nhận thức của tác phẩm văn học; một số yếu tố hình thức và biện pháp nghệ thuật thuộc mỗi thể loại văn học (người kể chuyện, người kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện ngôi thứ ba, nhân vật, điểm nhìn, sự thay đổi người kể chuyện và điểm nhìn, xung đột, không gian và thời gian, lời người kể chuyện và lời nhân vật, mạch cảm xúc trữ tình, từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp, luật thơ, kết cấu); cuối lớp 9 có tổng kết sơ giản về lịch sử văn học.

    + Cấp trung học phổ thông: những hiểu biết về một số thể loại, tiểu loại ít thông dụng, đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn (thần thoại, sử thi, chèo hoặc tuồng, truyện và thơ hiện đại; tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại); một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết văn bản văn học (câu chuyện, người kể chuyện toàn tri, người kể chuyện hạn tri, người kể chuyện và sự dịch chuyển, phối hợp điểm nhìn, cách kể, tứ thơ, đặc trưng của hình tượng văn học; phong cách văn học; những hiểu biết về lịch sử văn học và một số tác gia lớn); một số chuyên đề học tập tập trung vào kiến thức về các giai đoạn, trào lưu và phong cách sáng tác văn học.

    Như vậy, ngôi kể thứ nhất sẽ có trong chương trình kiến thức môn Ngữ văn cấp học ở cấp trung học cơ sở.

    Theo chương trình thì môn Ngữ văn lớp 6 có bao nhiêu tiết?

    Căn cứ Chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT quy định về thời lượng thực hiện chương trình như sau:

    - Thời lượng thực hiện chương trình ở các lớp (theo số tiết học)

    Lớp 1

    Lớp 2

    Lớp 3

    Lớp 4

    Lớp 5

    Lớp 6

    Lớp 7

    Lớp 8

    Lớp 9

    Lớp 10

    Lớp 11

    Lớp 12

    420

    350

    245

    245

    245

    140

    140

    140

    140

    105

    105

    105

    Ở cấp trung học phổ thông, mỗi lớp có thêm 35 tiết cho các chuyên đề học tập lựa chọn.

    - Thời lượng dành cho các nội dung giáo dục

    Thời lượng dành cho các nội dung giáo dục do tác giả sách giáo khoa và giáo viên chủ động sắp xếp căn cứ vào yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp và thực tế dạy học. Tuy nhiên, cần bảo đảm tỉ lệ hợp lí giữa các thành phần sau:

    + Giữa trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng (trọng tâm là rèn luyện kĩ năng thực hành, vận dụng).

    + Giữa các kiểu, loại văn bản đọc, viết, nói và nghe (dành thời lượng nhiều hơn cho đọc văn bản văn học).

    + Giữa các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe (dành thời lượng nhiều hơn cho việc rèn luyện kĩ năng đọc); cụ thể tỉ lệ thời lượng dành cho các kĩ năng ở từng lớp như sau:

    Nhóm lớp

    Đọc

    Viết

    Nói và nghe

    Đánh giá định kì

    Từ lớp 1 đến lớp 3

    khoảng 60%

    khoảng 25%

    khoảng 10%

    khoảng 5%

    Từ lớp 4 đến lớp 5

    khoảng 63%

    khoảng 22%

    khoảng 10%

    khoảng 5%

    Từ lớp 6 đến lớp 9

    khoảng 63%

    khoảng 22%

    khoảng 10%

    khoảng 5%

    Từ lớp 10 đến lớp 12

    khoảng 60%

    khoảng 25%

    khoảng 10%

    khoảng 5%

    Như vậy, đối chiếu quy định thì môn Ngữ văn lớp 6 có 140 tiết, trong đó khoảng 63% nội dung là đọc, khoảng 22% nội dung là viết, nói và nghe chiếm khoảng 10% thời lượng, còn lại 5% thời lượng dùng cho đánh giá định kì.

    7