Mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng có bị phân chia để thi hành án không?
Nội dung chính
Mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng có bị phân chia để thi hành án không?
Căn cứ khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014, trường hợp chưa xác định được phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 Luật Thi hành án dân sự 2008 hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo đó, nếu không thể xác định được phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng, Chấp hành viên sẽ thông báo cho người phải thi hành án và vợ hoặc chồng của họ. Thông báo nhằm để họ tự thỏa thuận về việc phân chia quyền sử dụng đất hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết thông qua thủ tục tố tụng dân sự. Trong trường hợp các bên không đạt được thỏa thuận và cũng không có yêu cầu phân chia, Chấp hành viên sẽ trực tiếp đề nghị Tòa án phân chia tài sản theo quy định pháp luật.
Như vậy, nếu người phải thi hành án không có hoặc không đủ tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ, mảnh đất thuộc sở hữu chung của vợ chồng vẫn có thể bị phân chia để đảm bảo thi hành án để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan.
Mảnh đất là tài sản chung của vợ chồng có bị phân chia để thi hành án không? (Hình từ Internet)
Chồng có được ưu tiên mua lại phần quyền sử dụng đất của vợ bị thi hành án trong mảnh đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng không?
Tại khoản 3 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự 2008 được sửa đổi bởi khoản 31 Điều 1 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 có quy định như sau:
Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án
…
3. Chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung.
Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này.
Theo đó, chồng được ưu tiên mua lại phần quyền sử dụng đất bị thi hành án trong mảnh đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng trong thời hạn 03 tháng. Trong những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn này là 15 ngày, kể từ ngày được Chấp hành viên thông báo.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà người chồng không mua lại phần quyền sử dụng đất này thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 Luật Thi hành án dân sự 2008.
Như vậy, người chồng có quyền ưu tiên mua lại phần quyền sử dụng đất bị thi hành án trong mảnh đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng trong thời hạn 03 tháng đối với lần bán đầu tiên và 15 ngày đối với các lần bán sau. Nếu không thực hiện quyền mua trong vòng 05 ngày làm việc sau khi hết thời hạn ưu tiên, quyền này sẽ bị mất, và tài sản sẽ được bán theo thủ tục thông thường.
Giá bán của quyền sử dụng đất bị kê biên trong mảnh đất thuộc sở hữu chung của vợ chồng được xác định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 98 Luật thi hành án dân sự 2008, việc định giá tài sản do hai bên đương sự (người vợ và người được thi hành án) thỏa thuận với nhau về giá của quyền sử dụng đất được thi hành.
Khi hai bên thỏa thuận được với nhau về giá của quyền sử dụng đất này thì giá được xem là giá khởi điểm bán đấu giá.
Nếu hai bên không thống nhất về giá tài sản thì hai bên có thể thỏa thuận về tổ chức định giá tài sản hoặc yêu cầu Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên để xác định giá cho quyền sử dụng đất này.