Chồng mất tích, vợ bán đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng có được không?

Trường hợp nào một người được xem là mất tích? Chồng mất tích, vợ bán đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng có được không?

Nội dung chính

    Trường hợp nào chồng được xem là mất tích?

    Tại Điều 68 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

    Thời hạn 2 năm nói trên được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

    Như vậy, người chồng được xem là mất tích khi người đó biệt tích 02 năm liền trở lên và đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Đồng thời, để xác định người chồng mất tích thì cần phải có quyết định tuyên bố người đó mất tích theo trình tự thủ tục của pháp luật về tố tụng dân sự.

    Chồng mất tích, vợ bán đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng có được không? (Hình từ Internet)

    Quản lý quyền sử dụng đất của chồng bị tuyên bố mất tích như thế nào?

    Việc quản lý quyền sử dụng đất của chồng bị tuyên bố mất tích được áp dụng theo quy định tại Điều 69 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

    (1) Người đang quản lý quyền sử dụng đất của người chồng vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 Bộ luật Dân sự 2015 tiếp tục quản lý quyền sử dụng đất của người đó khi người đó bị Tòa án tuyên bố mất tích. Cụ thể, những người quản lý quyền sử dụng đất của người chồng bao gồm:

    - Đối với quyền sử dụng đất đã được người chồng ủy quyền quản lý trước đó thì người được ủy quyền tiếp tục quản lý;

    - Đối với quyền sử dụng đất là tài sản chung thì do chủ sở hữu chung còn lại quản lý;

    - Đối với quyền sử dụng đất do vợ đang quản lý thì vợ tiếp tục quản lý; nếu vợ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con thành niên hoặc cha, mẹ của người chồng mặt quản lý.

    (2) Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn cho người vợ, quyền sử dụng đất của người chồng sẽ do con thành niên hoặc cha, mẹ của người đó quản lý. Trường hợp không có những người này, quyền sử dụng đất được giao cho người thân thích của người chồng; nếu không có người thân thích, Tòa án sẽ chỉ định người quản lý phù hợp.

    Chồng mất tích, vợ bán đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng có được không?

    Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Bên cạnh đó, tại điểm a khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng là bất động sản phải có sự thỏa thuận bằng văn bản giữa vợ và chồng về việc định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên, trong trường hợp chồng mất tích thì việc lập văn bản thỏa thuận là không thể thực hiện được.

    Do đó, nếu muốn bán đất (chuyển nhượng quyền sử dụng đất), người vợ chỉ có thể bán phần đất thuộc phần sở hữu của mình trong mảnh đất là tài sản chung của hai vợ chồng. Tuy nhiên, để có thể bán được phần đất này thì người vợ phải xác định được phần tài sản của mình trong mảnh đất là tài sản chung của hai vợ chồng.

    Cụ thể, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 68 Bộ Luật Dân sự 2015 và khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trường hợp vợ của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

    Việc phân chia mảnh đất là tài sản chung sau khi ly hôn vẫn tuân theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể tài sản chung sẽ được chia đôi (trong trường hợp chồng mất tích thì việc thỏa thuận chia tài sản là không thể) và phải được xem xét dựa trên các yếu tố như hoàn cảnh gia đình, công sức đóng góp của vợ, chồng… Phần đất của của người vợ sẽ được xác định theo nội dung bản án đã có hiệu lực pháp luật.

    Như vậy, trong trường hợp người chồng mất tích, người vợ không thể tự ý bán toàn bộ mảnh đất mà chỉ có thể bán phần đất thuộc phần sở hữu hợp pháp của mình trong mảnh đất là tài sản chung của hai vợ chồng sau khi phân chia. 

    13