12:40 - 19/12/2024

Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn? Cấp trung học cơ sở mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?

Một số mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn mà các bạn học sinh có thể tham khảo.

Nội dung chính

    Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn?

    Trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương là một trong những nội dung các bạn học sinh lớp 6 sẽ được học ở môn Ngữ văn lớp 6.

    Các bạn học sinh có thể tham khảo một số Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn dưới đây:

    Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn

    Mẫu 1: Nhớ về tuổi thơ

    Quê hương là nơi tôi sinh ra và lớn lên, là những kỷ niệm tuổi thơ đẹp đẽ không thể nào quên. Tiếng cười giòn tan của lũ trẻ chúng tôi vang vọng khắp con đường làng nhỏ, những trò chơi dân gian đơn sơ nhưng đầy thú vị đã gắn kết chúng tôi lại với nhau. Hương lúa chín thơm, gió mùa thu mát rượi, tất cả đều là những ký ức ngọt ngào. Dù có đi đâu, tôi vẫn luôn nhớ về ngôi nhà nhỏ với mái ngói đỏ tươi, về mảnh vườn sau nhà với những cây trái sum xuê. Quê hương là nơi nuôi dưỡng tâm hồn tôi, là nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tạo của tôi.

    Mẫu 2: Quê hương là cội nguồn

    Quê hương không chỉ là nơi ta sinh ra mà còn là cội nguồn sinh dưỡng tâm hồn. Đó là nơi chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống, những câu chuyện cổ tích, những bài hát dân ca... Tất cả đều góp phần hình thành nên nhân cách của mỗi người. Quê hương là điểm tựa tinh thần vững chắc, giúp ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu quê hương là động lực thôi thúc ta không ngừng vươn lên, khẳng định bản thân.

    Mẫu 3: Quê hương trong trái tim

    Quê hương luôn hiện hữu trong trái tim tôi như một bài ca ru ngọt ngào. Đó là hình ảnh những cánh đồng bát ngát, dòng sông hiền hòa, những ngôi nhà cổ kính... Tất cả đều gợi lên trong tôi những cảm xúc ấm áp, thân thuộc. Dù có đi xa, tôi vẫn luôn hướng về quê hương với một nỗi nhớ da diết. Quê hương là nơi tôi tìm về mỗi khi mệt mỏi, là chốn bình yên để tôi thư giãn và lấy lại năng lượng.

    Mẫu 4: Quê hương và trách nhiệm

    Yêu quê hương không chỉ là cảm xúc mà còn là trách nhiệm của mỗi người dân. Chúng ta cần phải có những hành động cụ thể để bảo vệ và phát triển quê hương. Đó có thể là việc tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hay đơn giản chỉ là việc tuyên truyền những giá trị tốt đẹp của quê hương đến với mọi người. Mỗi người một ít, chúng ta sẽ góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

    Mẫu 5: Quê hương là mãi mãi

    Quê hương là một phần không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi người. Đó là nơi chúng ta được sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Dù thời gian có trôi qua, xã hội có phát triển, tình yêu quê hương vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim mỗi người. Quê hương là điểm tựa tinh thần vững chắc, là nơi chúng ta tìm về khi cuộc sống có những biến động. Tình yêu quê hương là một giá trị vĩnh cửu, không bao giờ phai nhạt.

    Lưu ý: Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo./.

    Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn? Cấp trung học cơ sở mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?

    Mẫu đoạn văn trình bày suy nghĩ về tình cảm của con người với quê hương ngắn gọn? Cấp trung học cơ sở mỗi lớp có bao nhiêu học sinh? (Hình từ Internet)

    Cấp trung học cơ sở mỗi lớp có bao nhiêu học sinh?

    Căn cứ khoản 3 Điều 16 Điều lệ trường trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học được ban hành kèm theo Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT quy định về lớp học như sau:

    Lớp học
    ...
    3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể số học sinh trong mỗi lớp học theo hướng giảm sĩ số học sinh trên lớp; bảo đảm mỗi lớp học ở các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông có không quá 45 học sinh.
    ...

    Như vậy, cấp trung học cơ sở mỗi lớp có không quá 45 học sinh.

    Có bắt buộc học lớp 6 đi học thêm không?

    Tại Điều 3 Quy định về dạy, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT quy định về nguyên tắc dạy thêm, học thêm như sau:

    Nguyên tắc dạy thêm, học thêm
    1. Hoạt động dạy thêm, học thêm phải góp phần củng cố, nâng cao kiến thức, kỹ năng, giáo dục nhân cách của học sinh; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và không gây nên tình trạng vượt quá sức tiếp thu của người học.
    2. Không cắt giảm nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá để đưa vào giờ dạy thêm; không dạy thêm trước những nội dung trong chương trình giáo dục phổ thông chính khoá.
    3. Đối tượng học thêm là học sinh có nhu cầu học thêm, tự nguyện học thêm và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.
    4. Không tổ chức lớp dạy thêm, học thêm theo các lớp học chính khóa; học sinh trong cùng một lớp dạy thêm, học thêm phải có học lực tương đương nhau; khi xếp học sinh vào các lớp dạy thêm, học thêm phải căn cứ vào học lực của học sinh.
    5. Tổ chức, cá nhân tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm phải chịu trách nhiệm về các nội dung đăng ký và xin phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm.

    Bên cạnh đó căn cứ Điều 5 Quy định về dạy, học thêm ban hành kèm theo Thông tư 17/2012/TT-BGDĐT có quy định như sau:

    Tổ chức dạy thêm, học thêm trong nhà trường
    1. Học sinh có nguyện vọng học thêm phải viết đơn xin học thêm gửi nhà trường; cha mẹ học sinh hoặc người giám hộ (sau đây gọi chung là cha mẹ học sinh) có con em xin học thêm trực tiếp ký, ghi cam kết với nhà trường về dạy thêm, học thêm vào đơn xin học thêm và chịu trách nhiệm thực hiện cam kết.
    2. Hiệu trưởng nhà trường tiếp nhận đơn xin học thêm của học sinh, tổ chức phân nhóm học sinh theo học lực, phân công giáo viên phụ trách môn học và tổ chức dạy thêm theo nhóm học lực của học sinh.
    3. Giáo viên có nguyện vọng dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm; trong đơn có cam kết với nhà trường về việc hoàn thành tốt tất cả các nhiệm vụ của giáo viên theo quy định chung và các nhiệm vụ khác do nhà trường phân công, đồng thời thực hiện nghiêm túc các quy định về dạy thêm, học thêm trong nhà trường.
    4. Hiệu trưởng nhà trường xét duyệt danh sách giáo viên dạy thêm, phân công giáo viên dạy thêm, xếp thời khoá biểu dạy thêm phù hợp với học lực của học sinh.

    Theo đó, việc học thêm của học sinh vào học lớp 6 là dựa trên sự tự nguyện và được gia đình đồng ý; không được dùng bất cứ hình thức nào để ép buộc gia đình học sinh và học sinh học thêm.

    Như vậy, sẽ không bắt buộc học lớp 6 đi học thêm.

    17