Chồng bị tuyên bố là đã chết trở về mà quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng chưa được phân chia thì xử lý ra sao?
Nội dung chính
Người chồng biệt tích hơn 5 năm liền thì có bị tuyên bố là đã chết?
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015, một trong những trường hợp mà người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết là khi người đó biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống;
Thời hạn này được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì người chồng biệt tích hơn 5 năm liền bị tuyên bố là đã chết nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Không có tin tức xác thực là người chồng còn sống;
- Người có quyền, lợi ích liên quan có yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố người chồng là đã chết.
Chồng bị tuyên bố là đã chết trở về mà quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng chưa được phân chia thì xử lý ra sao? (Hình từ Internet)
Khi chồng bị tuyên bố là đã chết mà không để lại di chúc, quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng được xử lý như thế nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, khi chồng bị tuyên bố là đã chết mà không có di chúc chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế không có thỏa thuận cử người khác quản lý di sản thì người vợ quản lý quyền sử dụng đất thuộc tài sản chung của vợ chồng.
Trong trường hợp có người yêu cầu chia di sản là quyền sử dụng đất thuộc sở hữu chung của hai vợ chồng thì xử lý quyền sử dụng đất này theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể như sau:
(1) Quyền sử dụng đất được chia đôi, một nửa quyền sử dụng đất thuộc về quyền sở hữu riêng của người vợ, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản.
(2) Một nửa quyền sử dụng đất còn lại được xác định là di sản thừa kế của người chồng. Được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trong trường hợp này, chồng bị tuyên bố là đã chết mà không để lại di chúc, do đó, một nửa quyền sử dụng đất còn lại là di sản thừa kế sẽ được phân chia theo quy định về thừa kế theo pháp luật (Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự 2015). Cụ thể, phần di sản này sẽ được phân chia cho những người còn sống theo hàng thừa kế. Thứ tự các hàng thừa kế như sau:
- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị tuyên bố là đã chết;
- Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người bị tuyên bố là đã chết; cháu ruột của người bị tuyên bố là đã chết mà người bị tuyên bố là đã chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
- Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người bị tuyên bố là đã chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người bị tuyên bố là đã chết; cháu ruột của người bị tuyên bố là đã chết mà người bị tuyên bố là đã chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người bị tuyên bố là đã chết mà người bị tuyên bố là đã chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng phần quyền sử dụng đất bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
(3) Trong trường hợp phân chia quyền sử dụng đất là di sản thừa kế của chồng cho những người thừa kế mà dẫn đến việc người vợ và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất...thì người vợ có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, người vợ có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sử dụng đất mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định. Thời hạn này không quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn 03 năm mà bên người vợ chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu Tòa án gia hạn một lần nhưng không quá 03 năm.
Như vậy, khi chồng bị tuyên bố là đã chết mà không để lại di chúc, quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng chung được chia đôi, trong đó một nửa thuộc sở hữu riêng của người vợ, phần còn lại là di sản thừa kế được phân chia theo pháp luật (trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác trước đó). Trong trường hợp đặc biệt, người vợ có thể yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản để bảo vệ quyền lợi bản thân và gia đình.
Chồng bị tuyên bố là đã chết trở về mà quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng chưa được phân chia thì xử lý ra sao?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015, khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Bên cạnh đó, căn cứ khoản 2 Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
+ Vợ của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
+ Vợ của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng khẳng định rằng khi Tòa án quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết, quan hệ hôn nhân giữa người này và vợ sẽ được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn, nếu người vợ chưa kết hôn với người khác. Tuy nhiên, nếu trước đó Tòa án đã ra quyết định cho ly hôn thì quyết định ly hôn vẫn giữ nguyên hiệu lực pháp luật. Đối với trường hợp vợ của người được tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác, quan hệ hôn nhân xác lập sau sẽ được công nhận và có hiệu lực pháp luật.
Việc xử lý quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng trong trường hợp người chồng bị tuyên bố là đã chết trở về mà chưa được phân chia sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quyền sử dụng đất vẫn là tài sản chung của vợ chồng như trước.
Thứ hai, trong trường hợp đã có quyết định ly hôn, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng sẽ được xử lý theo đúng nội dung bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, trường hợp người vợ đã kết hôn với người khác mà quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng chưa được chia thì sẽ được phân chia theo nguyên tắc giải quyết tài sản chung khi ly hôn quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Cụ thể:
(1) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
(2) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại (1)
(3) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
(4) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
Dẫn chiếu tới quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quyền sử dụng đất sẽ được phân chia theo nguyên tắc giải quyết tài sản chung khi ly hôn như sau:
- Ưu tiên thỏa thuận: Nếu hai bên đạt được thỏa thuận về việc phân chia tài sản chung, Tòa án sẽ công nhận thỏa thuận đó. Trường hợp không thỏa thuận được, việc phân chia sẽ do Tòa án quyết định.
- Nguyên tắc phân chia tài sản: Tài sản chung được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố:
+ Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Như vậy, chồng bị tuyên bố là đã chết trở về, nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng chưa được phân chia theo quy định thì sẽ được xử lý tùy thuộc vào tình trạng hôn nhân của vợ chồng. Cụ thể là theo các trường hợp khôi phục hôn nhân, theo quyết định ly hôn hoặc chia tài sản như khi ly hôn nếu vợ đã kết hôn với người khác.