Sổ tay Đảng viên Đồng Nai là gì? 04 nhiệm vụ chính của Đảng viên Đồng Nai theo Điều lệ Đảng?
Nội dung chính
Sổ tay Đảng viên Đồng Nai là gì?
Sổ tay Đảng viên Đồng Nai là một tài liệu quản lý và theo dõi quá trình rèn luyện, phấn đấu, và công tác của các Đảng viên tại tỉnh Đồng Nai. Đây là công cụ quan trọng giúp các Đảng viên ghi chép lại các hoạt động, kết quả công tác cũng như sự tu dưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống của bản thân trong quá trình tham gia tổ chức Đảng.
Sổ tay này có mục đích không chỉ để Đảng viên tự theo dõi sự tiến bộ cá nhân mà còn là công cụ giúp tổ chức Đảng đánh giá, nhận xét và làm căn cứ cho việc xem xét, kết nạp, khen thưởng hoặc xử lý các Đảng viên. Trong sổ tay, Đảng viên sẽ ghi chép các thông tin về các cuộc họp, các phong trào, công tác chuyên môn, cũng như các sự kiện, hoạt động của Đảng mà họ tham gia.
Ngoài ra, Sổ tay Đảng viên còn là phương tiện để Đảng viên thể hiện trách nhiệm của mình đối với các nhiệm vụ, công việc của Đảng và cộng đồng, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên, đáp ứng yêu cầu phát triển của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai.
Sổ tay Đảng viên Đồng Nai cung cấp các chức năng chính như:
- Sinh hoạt Đảng: Hỗ trợ đảng viên trong các hoạt động sinh hoạt chi bộ và tổ chức Đảng.
- Học tập nghị quyết: Cung cấp tài liệu và hướng dẫn học tập các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
- Tin tức và truyền thông: Cập nhật thông tin, tin tức liên quan đến hoạt động của Đảng và địa phương.
- Văn kiện, tư liệu: Cung cấp kho tài liệu, văn bản liên quan đến Đảng và các tài liệu nội bộ.
- Quản lý văn bản và tiện ích: Hỗ trợ quản lý văn bản và cung cấp các tiện ích phục vụ công tác Đảng.
Sổ tay Đảng viên Đồng Nai là gì? 04 nhiệm vụ chính của Đảng viên Đồng Nai theo Điều lệ Đảng? (Hình từ Internet)
04 nhiệm vụ chính của Đảng viên Đồng Nai theo Điều lệ Đảng?
Căn cứ tại Điều 2 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định về nhiệm vụ của Đảng viên như sau:
(1) Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
(2) Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
(3) Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
(4) Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc nào?
Theo quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam 2011 quy định về nguyên tắc tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.