Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Sổ đỏ đất chỉ đứng tên chồng khi bán đất có cần sự đồng ý của vợ không? Bán đất chung mà vợ không đồng ý thì giao dịch có vô hiệu không?

Đất muốn bán có phải là tài sản chung của vợ chồng hay không? Sổ đỏ đất chỉ đứng tên chồng khi bán đất có cần sự đồng ý của vợ không? Trường hợp đất chồng muốn bán là tài sản chung của vợ chồng mà người vợ không đồng ý bán đất thì giao dịch bán đất đó có phải giao dịch vô hiệu không?

Nội dung chính

    Đất muốn bán có phải là tài sản chung của vợ chồng hay không?

    Căn cứ vào Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

    - Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật Hôn nhân và gia đình; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    - Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    - Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

    Như vậy, nếu như đất muốn bán là tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, hay là tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung hoặc vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung; hay là tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng mà không có căn cứ để chứng minh thì tất cả đều được coi là tài sản chung của vợ chồng.

    Sổ đỏ đất chỉ đứng tên chồng khi bán đất có cần sự đồng ý của vợ không? (Hình ảnh từ Internet)

    Sổ đỏ đất chỉ đứng tên chồng khi bán đất có cần sự đồng ý của vợ không?

    Trường hợp đất đó là tài sản riêng của chồng

    Căn cứ vào khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

    Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng
    1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình…

    Như vậy nếu đất muốn bán thuộc sở hữu riêng của người chồng và người chồng cũng đang đứng tên trên sổ đỏ đất thì người chồng có toàn quyền định đoạt đối với miếng đất đó và có thể bán mà không cần sự đồng ý của vợ mình.

    Trường hợp đất đó là tài sản chung của vợ chồng

    Theo như cách xác định tài sản chung của vợ chồng như trên. Nếu đất muốn bán là tài sản chung của vợ chồng mà chỉ có chồng đứng tên trên sổ đỏ thì căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

    Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng
    1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.

    Đồng thời căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch mà theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

    Như vậy, Khi đất đai là tài sản chung nhưng chỉ đứng tên chồng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì việc bán đất phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng, không chỉ một mình chồng. Việc định đoạt tài sản chung mà không có sự đồng thuận của vợ là không hợp pháp

    Tóm lại, trường hợp sổ đỏ đất chỉ đứng tên chồng khi bán đất có cần sự đồng ý của vợ hay không phải phụ thuộc vào đất muốn bán thuộc tài sản riêng của chồng hay tài sản chung của vợ chồng. Nếu đất muốn bán thuộc sở hữu riêng của người chồng thì người chồng có thể bán đất mà không cần sự đồng ý của vợ mình. Ngược lại, nếu đất muốn bán là tài sản chung của vợ chồng, mặc dù sổ đỏ là do chồng đứng tên nhưng giao dịch phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng.

    Trường hợp đất chồng muốn bán là tài sản chung của vợ chồng mà người vợ không đồng ý bán đất thì giao dịch bán đất đó có phải giao dịch vô hiệu không?

    Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

    Đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng
    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.

    Như vậy, theo quy định trên việc người chồng muốn bán đất là tài sản chung của vợ chồng mà người vợ không đồng ý bán đất thì giao dịch bán đất đó có phải giao dịch vô hiệu hay không thì sẽ chia 02 trường hợp:

    - Trường hợp 1: Nếu người chồng tự mình xác lập và thực hiện giao dịch với người thứ ba không có sự đồng ý của cả hai vợ chồng (trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng) thì giao dịch đó vô hiệu,

    - Trường hợp 2: Nếu theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực.

    25