Lừa đảo để bán đất thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý không?
Nội dung chính
Lừa đảo để bán đất thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý không?
Trong thực tế, không ít trường hợp người mua đất trở thành nạn nhân của các hành vi lừa đảo trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Kẻ gian thường sử dụng giấy tờ giả, thông tin sai lệch hoặc lợi dụng sự tin tưởng để chiếm đoạt tài sản.
Khi sự việc bị phát hiện, câu hỏi được đặt ra là: “Nếu việc mua bán đất có hành vi lừa đảo thì hợp đồng đó có còn giá trị pháp lý hay không?”
Sau đây là giải đáp pháp lý về vấn đề "Lừa đảo để bán đất thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý không?"
Căn cứ theo Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép như sau:
Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
Bên cạnh đó, căn cứ theo khoản 1 Điều 407 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng vô hiệu như sau:
Điều 407. Hợp đồng vô hiệu
1. Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
Do đó, khi lừa đảo để bán đất tức là giao dịch dân sự đó có sự lừa dối. Do đó bên còn lại có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đất mua bán đất đó vô hiệu.
Như vậy, lừa đảo để bán đất thì hợp đồng mua bán đất đó vô hiệu tức là hợp đồng mua bán đất đó không có giá trị pháp lý theo quy định pháp luật.

Lừa đảo để bán đất thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý không? (Hình từ Internet)
Ký hợp đồng mua bán đất do bị lừa đảo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu là bao lâu?
Căn cứ theo Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu cụ thể như sau:
Điều 132. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu
1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.
2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.
3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.
Như vậy, kể từ ngày người giao kết hợp đồng mua bán đất biết mình bị lừa đảo thì trong thời hạn 02 năm người đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
Hợp đồng đặt cọc mua đất vô hiệu thì có được đòi lại tiền cọc không?
Căn cứ theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 328. Đặt cọc
1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Theo đó, có thể hiểu hợp đồng đặt cọc mua đất là một hợp đồng thể hiện việc bên nhận chuyển nhượng (bên mua) giao một khoản tiền hoặc tài sản khác theo quy định cho bên chuyển nhượng (bên bán) trong một thời hạn để đảm bảo việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, căn cứ theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
[...]
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
Như vậy, khi hợp đồng đặt cọc mua đất vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tức là phải hoàn trả tiền cọc lại theo quy định.
Trên đây là toàn bộ nội dung về "Lừa đảo để bán đất thì hợp đồng đó có giá trị pháp lý không?"
