Hồ sơ dự thầu dự án PPP về năng lực của nhà đầu tư được đánh giá theo phương pháp gì?
Nội dung chính
Hồ sơ dự thầu dự án PPP về năng lực của nhà đầu tư được đánh giá theo phương pháp gì?
Căn cứ khoản 1 Điều 42 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 được sửa đổi bởi điểm a khoản 21 Điều 2 Luật sửa đổi Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư; Luật Hải quan; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Đầu tư; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2025 quy định như sau:
Điều 42. Phương pháp và tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu
1. Việc đánh giá năng lực của nhà đầu tư được thực hiện theo phương pháp đạt hoặc không đạt trên cơ sở tiêu chuẩn trong hồ sơ mời thầu:
a) Khả năng thu xếp vốn chủ sở hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 1a Điều này;
b) Khả năng huy động vốn vay, nguồn vốn hợp pháp khác.
Trường hợp liên danh, năng lực của nhà đầu tư được xác định bằng tổng năng lực của các thành viên liên danh. Nhà đầu tư đứng đầu liên danh phải có tỷ lệ góp vốn chủ sở hữu tối thiểu là 30%, từng thành viên trong liên danh có tỷ lệ góp vốn chủ sở hữu tối thiểu là 15%
[...]
Như vậy, hồ sơ dự thầu dự án PPP về năng lực của nhà đầu tư được đánh giá theo phương pháp đạt hoặc không đạt dựa trên các tiêu chuẩn trong hồ sơ mời thầu, gồm:
- Khả năng thu xếp vốn chủ sở hữu (trừ các trường hợp được miễn tại khoản 1a Điều 42 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020).
- Khả năng huy động vốn vay và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Trường hợp liên danh, năng lực được tính theo tổng năng lực các thành viên, với yêu cầu nhà đầu tư đứng đầu liên danh góp tối thiểu 30% vốn chủ sở hữu. Mỗi thành viên còn lại góp tối thiểu 15% vốn chủ sở hữu.

Hồ sơ dự thầu dự án PPP về năng lực của nhà đầu tư được đánh giá theo phương pháp gì? (Hình từ Internet)
Hợp đồng dự án PPP được ký kết trên cơ sở quyết định phê duyệt thông tin năng lực của nhà đầu tư đúng không?
Căn cứ khoản 1 Điều 49 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 13 Điều 3 Luật sửa đổi Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu 2024 quy định như sau:
Điều 49. Ký kết hợp đồng dự án PPP
1. Trừ dự án áp dụng loại hợp đồng BT không yêu cầu thanh toán, hợp đồng dự án PPP được ký kết trên cơ sở quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư, kết quả đàm phán hợp đồng, hồ sơ dự thầu còn hiệu lực, thông tin năng lực của nhà đầu tư đã được cập nhật tại thời điểm ký kết và hồ sơ mời thầu. Trường hợp dự án PPP có tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công và thuộc loại công trình thiết kế ba bước theo quy định của pháp luật về xây dựng, cơ quan có thẩm quyền tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán của tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư, bảo đảm hợp đồng được ký kết trên cơ sở thiết kế kỹ thuật và dự toán đã được phê duyệt.
1a. Hợp đồng dự án áp dụng loại hợp đồng BT không yêu cầu thanh toán được ký kết trên cơ sở quyết định phê duyệt dự án, kết quả đàm phán hợp đồng.
2. Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP hợp thành một bên và cùng ký vào hợp đồng với cơ quan ký kết hợp đồng.
3. Đối với nhà đầu tư liên danh, tất cả các thành viên liên danh phải trực tiếp ký, đóng dấu (nếu có) vào hợp đồng.
Theo đó, hợp đồng dự án PPP (trừ trường hợp loại hợp đồng BT không yêu cầu thanh toán) không chỉ được ký kết dựa trên quyết định phê duyệt thông tin năng lực của nhà đầu tư đã được cập nhật tại thời điểm ký kết, mà phải ký trên cơ sở đồng thời các yếu tố sau:
- Quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư.
- Kết quả đàm phán hợp đồng.
- Hồ sơ dự thầu còn hiệu lực.
- Thông tin năng lực của nhà đầu tư được cập nhật tại thời điểm ký kết.
- Hồ sơ mời thầu.
Ngoài ra, với dự án PPP có tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công và thuộc loại công trình thiết kế ba bước, còn phải lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật và dự toán của tiểu dự án sử dụng vốn đầu tư công trước khi ký hợp đồng.
Các trường hợp điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP?
Căn cứ khoản 3 Điều 51 Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư 2020 được sửa đổi bởi điểm a khoản 25 Điều 2 Luật sửa đổi Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư; Luật Hải quan; Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Đầu tư; Luật Đầu tư công; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2025 quy định về các trường hợp điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án PPP bao gồm:
- Chậm hoàn thành giai đoạn xây dựng hoặc gián đoạn trong quá trình vận hành công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng của dự án PPP hoặc công trình khác trực tiếp liên quan đến dự án PPP do hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định của pháp luật về dân sự vượt quá tầm kiểm soát hợp lý của một bên;
- Cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Nhà nước đình chỉ dự án, trừ trường hợp phải đình chỉ do lỗi của doanh nghiệp dự án PPP;
- Chi phí gia tăng phát sinh do yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, cơ quan ký kết hợp đồng chưa được xác định khi ký kết hợp đồng và nếu không được gia hạn thì doanh nghiệp dự án PPP không thể thu hồi các chi phí này;
- Khi có sự thay đổi về quy hoạch, chính sách, pháp luật có liên quan làm giảm doanh thu dưới 75% so với mức doanh thu trong phương án tài chính quy định tại hợp đồng;
- Khi doanh thu tăng từ 125% trở lên so với mức doanh thu trong phương án tài chính quy định tại hợp đồng.
