Định hướng xây dựng cảng biển nào làm cảng cửa ngõ miền Tây?
Nội dung chính
Định hướng xây dựng cảng biển nào làm cảng cửa ngõ miền Tây?
Lưu ý: Miền Tây thường được dùng như một tên gọi thường ngày để chỉ vùng đồng bằng sông Cửu Long theo ngôn ngữ pháp lý, trong các văn bản quy hoạch... Nên, trong phạm vi bài viết này, việc đề cập đến miền Tây được hiểu là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Căn cứ vào tiết b tiểu mục 1 Mục II Phụ lục nội dung điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được ban hành kèm theo Nghị quyết 306/NQ-CP năm 2025 về phân vùng kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng như sau:
II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Phân vùng kinh tế - xã hội, định hướng phát triển và liên kết vùng
[...]
b) Định hướng phát triển vùng và liên kết vùng
[...]
- Vùng đồng bằng sông Cửu Long: phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt 9,0 - 9,5%/năm giai đoạn 2026 - 2030. Phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long thành trung tâm kinh tế nông nghiệp hiện đại, bền vững, năng động và hiệu quả cao của cả nước, khu vực và thế giới. Tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hiện đại, quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp số, nông nghiệp thông minh. Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm chủ lực theo hướng giảm lúa gạo, tăng trái cây và thủy sản; sử dụng đất nông nghiệp linh hoạt, hiệu quả hơn. Triển khai hiệu quả Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Xây dựng trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia về nông nghiệp trên địa bàn vùng. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng tái tạo; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến nông, thủy sản, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ; từng bước phát triển công nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp công nghệ số. Phát triển mạnh kinh tế biển, trong đó chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí, năng lượng tái tạo, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ. Phát triển đồng bằng sông Cửu Long trở thành thương hiệu quốc tế về du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch sinh thái và du lịch biển, đảo. Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; xây dựng các hồ chứa nước và nghiên cứu các biện pháp, công trình trữ nước trong sông, kênh, rạch; phòng, chống sạt lở, xâm nhập mặn; bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn. Trên hành lang kinh tế Bắc - Nam tập trung phát triển đoạn Cần Thơ - Vĩnh Long - Đồng Tháp là hành lang kinh tế - đô thị - công nghiệp động lực của vùng. Hình thành, phát triển một số hành lang kinh tế Đông - Tây, hành lang kinh tế phía Tây, hành lang kinh tế ven biển phía Đông. Tăng cường đầu tư hạ tầng kết nối vùng với Thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông Nam Bộ; hệ thống đường ven biển qua các tỉnh; các tuyến đường kết nối các đô thị quan trọng tại các tỉnh, thành phố sau sáp nhập. Phát triển kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa, cảng biển, hạ tầng logistics; nâng cấp các luồng chính, bao gồm luồng hàng hải cho tàu biển trọng tải lớn. Xây dựng cảng biển Trần Đề là cảng cửa ngõ vùng Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng cảng tổng hợp lưỡng dụng Hòn Khoai và đường nối từ đất liền ra cảng.
Theo đó, đối với miền Tây sẽ định hướng át triển kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa, cảng biển, hạ tầng logistics; nâng cấp các luồng chính, bao gồm luồng hàng hải cho tàu biển trọng tải lớn. Xây dựng cảng biển Trần Đề là cảng cửa ngõ vùng Đồng bằng sông Cửu Long; xây dựng cảng tổng hợp lưỡng dụng Hòn Khoai và đường nối từ đất liền ra cảng.
Như vậy, định hướng xây dựng cảng biển Trần Đề làm cảng cửa ngõ miền Tây.

Định hướng xây dựng cảng biển nào làm cảng cửa ngõ miền Tây? (Hình từ Internet)
Theo tiêu chí về phạm vi ảnh hưởng của cảng biển thì có mấy loại cảng biển?
Căn cứ vào khoản 2 Điều 3 Nghị định 76/2021/NĐ-CP thì tiêu chí về phạm vi ảnh hưởng của cảng biển được đánh giá trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, qua các chỉ tiêu sau:
- Cảng biển phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc liên vùng và có chức năng trung chuyển quốc tế hoặc cảng cửa ngõ quốc tế;
- Cảng biển phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc liên vùng;
- Cảng biển phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của vùng;
- Cảng biển phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phương pháp đánh giá, phân loại cảng biển hiện nay là gì?
Căn cứ vào khoản 1 Điều 4 Nghị định 76/2021/NĐ-CP quy định:
Điều 4. Phương pháp đánh giá, phân loại cảng biển
1. Việc đánh giá, phân loại cảng biển theo phương thức chấm điểm. Thang điểm đánh giá là 100 điểm. Thang điểm đánh giá được xác định cụ thể đối với từng tiêu chí và thể hiện chi tiết tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này.
2. Cảng biển được đánh giá và phân thành 04 loại
a) Cảng biển đặc biệt: có tổng số điểm chấm đạt trên 90 điểm;
b) Cảng biển loại I: có tổng số điểm chấm đạt trên 70 điểm đến 90 điểm;
c) Cảng biển loại II: có tổng số điểm chấm đạt từ 50 điểm đến 70 điểm;
d) Cảng biển loại III: có tổng số điểm chấm dưới 50 điểm.
3. Căn cứ để đánh giá, phân loại hiện trạng cảng biển
a) Số liệu về phạm vi ảnh hưởng của cảng biển được căn cứ theo quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
b) Số liệu về quy mô của cảng biển sử dụng số liệu thống kê hàng hóa thông qua cảng biển trung bình trong 03 năm gần nhất của Cục Hàng hải Việt Nam và sử dụng số liệu về cỡ trọng tải tàu tiếp nhận tại cảng biển theo các quyết định công bố mở bến cảng, cầu cảng của Cục Hàng hải Việt Nam trong năm gần nhất.
4. Việc phân loại cảng biển khi lập quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch cảng biển phải căn cứ vào số liệu về hàng hóa, cỡ trọng tải tàu dự kiến từng thời kỳ quy hoạch và các tiêu chí quy định tại Nghị định này.
Như vậy, phương pháp đánh giá, phân loại cảng biển hiện nay là phương thức chấm điểm.
Thang điểm đánh giá là 100 điểm. Thang điểm đánh giá được xác định cụ thể đối với từng tiêu chí và thể hiện chi tiết tại Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 76/2021/NĐ-CP.
