Cục Thuế trích tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thu thuế ở xã được không?

Chuyên viên pháp lý: Nguyễn Xuân An Giang
Tham vấn bởi Luật sư: Nguyễn Thụy Hân
Cục Thuế trích tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thực hiện việc thu thuế ở xã, phường được không?

Nội dung chính

    Cục Thuế trích tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thu thuế ở xã được không?

    Căn cứ điểm 2 Mục VIII Thông tư 89-TC/TCT năm 1993 hướng dẫn thi hành Nghị định 74-CP năm 1993 thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp do Bộ Tài chính ban hành được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 6 Điều 1 Thông tư 59/2025/TT-BTC quy định như sau:

    VIII. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
    1. Cơ quan thuế các cấp có nhiệm vụ giúp chính quyền các cấp chỉ đạo các ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp dưới thực hiện việc thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp tại địa phương mình.
    2. Theo quy định tại Điều 29 Nghị định số 74/CP: Hằng năm, Cục Thuế được trích số tiền bằng 4,5% trên số thuế sử dụng đất nông nghiệp thu được đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thực hiện việc thu thuế ở xã, phường và hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường. Khoản kinh phí này do ngân sách trung ương chi, Bộ Tài chính cấp theo kế hoạch từng tháng, quý cho Cục Thuế như các khoản kinh phí khác, cuối năm thanh quyết toán số thuế thực thu.
    [...]

    Như vậy, hằng năm Cục Thuế được trích 4,5% trên số thuế sử dụng đất nông nghiệp thu được để:

    - Đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thực hiện nhiệm vụ thu thuế tại xã, phường;

    - Phục vụ hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường.

    Khoản kinh phí này do ngân sách trung ương chi trả, Bộ Tài chính cấp theo kế hoạch từng tháng, quý cho Cục Thuế như các khoản kinh phí khác, cuối năm thanh quyết toán số thuế thực thu.

    Cục Thuế trích tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thu thuế ở xã được không?

    Cục Thuế trích tiền thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đảm bảo kinh phí cho Đội Thuế thu thuế ở xã được không? (Hình từ Internet)

    Thuế sử dụng đất nông nghiệp tính bằng gì?

    Căn cứ Điều 12 Nghị định 74-CP năm 1993 quy định như sau:

    Điều 12. Sổ thuế là căn cứ để làm thông báo thuế và thu, nộp thuế. Thuế sử dụng đất nông nghiệp tính bằng thóc, thu bằng tiền; riêng đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thuế tính theo sản lượng khai thác và theo giá bán thực tế.
    1. Giá thóc thu thuế do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định sát giá thị trường và không được thấp hơn 10% so với giá trị thị trường địa phương.
    Ở những tỉnh, thành phố, giá thóc giữa các vùng có sự chênh lệch lớn thì giá thóc thu thuế có thể quy định cho từng huyện, quận, thị xã.
    Giá trị sản lượng tính thuế của cây lâu năm thu hoạch một lần (gỗ, tre, nứa, song, mây...) tính theo giá bán thực tế của từng loại cây. Trong trường hợp hộ nộp thuế kê khai giá thấp hơn so với giá thực tế, thì tính thuế theo giá do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định.
    Sản lượng để xác định giá trị sản lượng tính thuế của các cây lâu năm thu hoạch một lần là sản lượng thu hoạch thực tế.
    2. Hộ nộp thuế có trách nhiệm trực tiếp nộp tiền thuế cho Kho bạc Nhà nước theo thông báo của cơ quan thuế. Trong trường hợp cán bộ thuế buộc phải trực tiếp thu tiền thuế, thì 10 ngày một lần cơ quan thuế, cán bộ thuế phải nộp hết số tiền thuế đã thu được cho Kho bạc Nhà nước. Đối với tiền thuế thu được có số lượng lớn, thì phải nộp ngay cho Kho bạc Nhà nước. Nếu cán bộ thuế giữ tiền đã thu quá thời hạn quy định thì bị coi là hành vi xâm tiêu, chiếm dụng tiền thuế.
    3. Trong trường hợp đặc biệt việc thu thuế bằng thóc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và chịu trách nhiệm tổ chức thu thuế.

    Theo đó, thuế sử dụng đất nông nghiệp tính bằng thóc, thu bằng tiền. Riêng đất trồng cây lâu năm thu hoạch một lần thuế tính theo sản lượng khai thác và theo giá bán thực tế.

    Giao đất nông nghiệp cho người dân tộc thiểu số lần đầu có thu tiền sử dụng đất không?

    Căn cứ khoản 2 Điều 16 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:

    Điều 16. Trách nhiệm của Nhà nước về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số
    1. Có chính sách bảo đảm đất sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào dân tộc thiểu số phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng.
    2. Có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống như sau:
    a) Giao đất ở trong hạn mức và được miễn, giảm tiền sử dụng đất;
    b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng đất sang đất ở trong hạn mức giao đất ở và được miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với đất có nguồn gốc được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận hoặc được thừa kế, tặng cho, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật;
    c) Giao đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất;
    [...]

    Theo đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đất đai lần đầu cho cá nhân là người dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phù hợp với phong tục, tập quán, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng để bảo đảm ổn định cuộc sống trong đó có giao đất nông nghiệp trong hạn mức không thu tiền sử dụng đất.

    Như vậy, việc giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho người dân tộc thiểu số lần đầu sẽ không thu tiền sử dụng đất theo như quy định trên.

    saved-content
    unsaved-content
    32