Chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, vợ có được quyền bán nhà là tài sản chung

Vợ của người không còn năng lực hành vi dân sự có được quyền bán nhà ở, là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân hay không

Nội dung chính

    Quy định về mất năng lực hành vi dân sự

    Theo khoản 1 Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 khi một cá nhân do mắc phải bệnh tâm thần hoặc các bệnh lý khác mà không thể nhận thức hoặc làm chủ hành vi của mình, Tòa án có thể tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự. Việc tuyên bố này phải dựa trên kết luận giám định pháp y tâm thần. Đây là một biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, đồng thời bảo vệ các giao dịch dân sự không bị sai lệch do người đó không thể tự quyết định.

    Trong trường hợp căn cứ này không còn, tức là người đó đã hồi phục hoặc có thể nhận thức được hành vi của mình, việc hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự có thể được thực hiện theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Quyết định hủy bỏ này sẽ giúp người này khôi phục lại khả năng tham gia đầy đủ vào các giao dịch dân sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.

    Chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, vợ có được quyền bán nhà là tài sản chung

    Chồng không còn năng lực hành vi dân sự, vợ có được quyền bán nhà là tài sản chung? (Hình từ Internet)

    Quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự

    Ngoài việc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự Bộ luật Dân sự 2015 còn quy định về việc hạn chế năng lực hành vi dân sự, đặc biệt là đối với những người nghiện ma túy hoặc các chất kích thích dẫn đến việc phá tán tài sản gia đình hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho những người xung quanh. Căn cứ theo Điều 24 Bộ luật Dân sự 2015 Tòa án có thể tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nếu người này có hành vi gây hại cho gia đình hoặc tài sản của mình.

    Việc hạn chế năng lực hành vi dân sự này cũng sẽ ảnh hưởng đến quyền thực hiện các giao dịch dân sự của người bị hạn chế. Theo đó, khi một người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của họ cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ khi giao dịch đó nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc theo quy định của pháp luật. Điều này đảm bảo rằng các quyết định tài chính của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự luôn được giám sát và bảo vệ.

    Tương tự như việc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, khi không còn căn cứ để duy trì quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án cũng sẽ ra quyết định hủy bỏ tuyên bố này, giúp người đó khôi phục quyền tham gia vào các giao dịch dân sự.

    Chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, vợ có được quyền bán nhà là tài sản chung?

    Một trong những tình huống phức tạp liên quan đến mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự là trong các quan hệ hôn nhân, đặc biệt khi một bên vợ hoặc chồng mất năng lực hành vi dân sự.

    Căn cứ theo khoản 1 Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015 khi một trong hai vợ chồng mất năng lực hành vi dân sự người còn lại sẽ là người giám hộ. Việc giám hộ này nhằm bảo vệ quyền lợi của người mất năng lực hành vi dân sự, đồng thời giúp họ tham gia vào các giao dịch dân sự thông qua đại diện của người giám hộ.

    Khoản 3 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định vợ chồng có thể đại diện cho nhau khi một bên mất năng lực hành vi dân sự, nếu bên còn lại có đủ điều kiện làm người giám hộ. Điều này có nghĩa là trong trường hợp một bên không còn khả năng tự quyết định các vấn đề pháp lý liên quan đến mình, bên còn lại sẽ có quyền đại diện để thực hiện các giao dịch bao gồm cả việc quyết định các tài sản chung của vợ chồng.

    Theo khoản 1 Điều 59 Bộ luật Dân sự 2025 quy định về quản lý tài sản của người được giám hộ thì:

    + Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ.

    + Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

    + Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.

    Từ những quy định trên, thì chồng mất năng lực hành vi dân sự, vợ là người giám hộ có thể bán nhà là tài sản chung. Tuy nhiên, việc bán nhà phải vì lợi ích của chồng và cần có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ để đảm bảo đúng quy định pháp luật.

    22