Thời hạn xin xác nhận người nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động như thế nào?

Chuyên viên pháp lý: Thư Viện Nhà Đất
Tham vấn bởi Luật sư: Nguyễn Thụy Hân
Thời hạn xin xác nhận người nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động? Không làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động khi?

Nội dung chính

    Thời hạn xin xác nhận người nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động như thế nào?

    Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định 152/2020/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 15/02/2021) thì:

    Người sử dụng lao động đề nghị Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động trước ít nhất 10 ngày, kể từ ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc.

    Trường hợp quy định tại khoản 4, 6 và 8 Điều 154 của Bộ luật Lao động và khoản 1, 2, 8 và 11 Điều 7 Nghị định này thì không phải làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động nhưng phải báo cáo với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi người lao động nước ngoài dự kiến làm việc thông tin: họ và tên, tuổi, quốc tịch, số hộ chiếu, tên người sử dụng lao động nước ngoài, ngày bắt đầu và ngày kết thúc làm việc trước ít nhất 3 ngày, kể từ ngày người lao động nước ngoài dự kiến bắt đầu làm việc tại Việt Nam.

    Như vậy, trừ các trường hợp người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động nhưng cũng không phải xin xác nhận thì các trường hợp còn lại phải xin xác nhận không thuộc diện cấp giấy phép lao động trước ít nhất 10 ngày, kể từ ngày người lao động nước ngoài bắt đầu làm việc.

    Trân trọng!

    34
    Quản lý: Công ty TNHH THƯ VIỆN NHÀ ĐẤT Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số ..., do ... cấp ngày ... (dự kiến) Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ