Tự tách thửa đất Hải Phòng đã có sổ đỏ thành 2 thửa thì thửa đất mới sau khi tách có được cấp sổ đỏ không?
Nội dung chính
Khi mua bán nhà đất Hải Phòng mà đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu thì có được cấp sổ đỏ không?
Căn cứ khoản 1 Điều 146 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:
Điều 146. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu
1. Thửa đất đang sử dụng được hình thành trước ngày văn bản quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về diện tích tối thiểu được tách thửa có hiệu lực thi hành mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích tối thiểu theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhưng có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.
[...]
Theo quy định trên, nếu thửa đất được hình thành trước ngày UBND TP. Hải Phòng ban hành quy định về diện tích tối thiểu tách thửa có hiệu lực, đồng thời đủ điều kiện cấp sổ đỏ thì vẫn được cấp sổ đỏ, dù diện diện tích nhỏ hơn mức tối thiểu.
Như vậy, khi mua bán nhà đất Hải Phòng mà đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu thì sẽ được cấp sổ đỏ nếu đất đó hình thành trước thời điểm quy định diện tích có hiệu lực.
Tự tách thửa đất Hải Phòng đã có sổ đỏ thành 2 thửa thì thửa đất mới sau khi tách có được cấp sổ đỏ không? (Hình từ Internet)
Tự tách thửa đất Hải Phòng đã có sổ đỏ thành 2 thửa thì thửa đất mới sau khi tách có được cấp sổ đỏ không?
Căn cứ khoản 2 Điều 146 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:
Điều 146. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu
[...]
2. Không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với trường hợp tự chia, tách thửa đất đã đăng ký, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thành 02 hoặc nhiều thửa đất mà trong đó có ít nhất 01 thửa đất có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu được tách thửa theo quy định tại Điều 220 của Luật này.
[...]
Như vậy, theo quy định trên, nếu tự tách thửa đất Hải Phòng đã có sổ đỏ thành 2 thửa mà thửa đất mới hình thành sau khi tách có diện tích nhỏ hơn diện tích tối thiểu thì không được cấp sổ đỏ cho thửa mới.
Tuy nhiên, nếu việc tách đảm bảo các thứa đất sau tách đều có diện tích lớn hơn hoặc bằng diện tích tối thiểu và đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 220 Luật Đất đai 2024 thì sẽ được cấp sổ đỏ cho từng thửa.
Nhà nước thu hồi sổ đỏ đã cấp trong các trường hợp nào theo quy định pháp luật?
Căn cứ khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai 2024 quy định Nhà nước thu hồi giấy chứng nhận (sổ đỏ) đã cấp trong các trường hợp sau đây:
[1] Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp;
[2] Cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp;
[3] Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;
[4] Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận;
[5] Giấy chứng nhận đã cấp bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy;
[6] Trường hợp đấu giá, giao quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án mà người phải thi hành án không nộp giấy chứng nhận đã cấp.