Vợ bán đất đứng tên mình có cần chữ ký của chồng là người nước ngoài không?
Nội dung chính
Chồng là người nước ngoài nhưng đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật về hôn nhân của nước nào?
Căn cứ khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 122 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng nêu rõ đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài sẽ áp dụng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đó, trường hợp chồng là người nước ngoài nhưng đăng ký kết hôn tại Việt Nam được xem là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Quan hệ hôn nhân và gia đình này sẽ áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam.
Vợ bán đất đứng tên mình có cần chữ ký của chồng là người nước ngoài không? (Hình từ Internet)
Mảnh đất được mua sau khi kết hôn với chồng là người nước ngoài là tài sản riêng nếu chỉ đứng tên người vợ?
Như đã nêu ở trên, bởi vì đây là quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nên việc áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình với trường hợp này phải tuân theo pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam, trong đó có cả chế độ tài sản của vợ chồng.
Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định vợ chồng có thể áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Đối với chế độ tài sản theo luật định sẽ được quy định như sau:
Theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản chung gồm:
- Tài sản do vợ, chồng tạo ra;
- Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh;
- Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng;
- Thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung;
- Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tại Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định tài sản riêng như sau:
- Tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
- Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng;
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Qua các quy định nêu trên, đối với trường hợp tài sản là mảnh đất (quyền sử dụng đất) mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Về việc ghi tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất được pháp luật quy định tại Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản chung như sau: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.”
Ngoài ra, khoản 4 Điều 135 Luật Đất đai 2024 cũng có quy định trường hợp quyền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là tài sản chung của vợ và chồng thì phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp vợ và chồng có thỏa thuận ghi tên một người để đứng tên làm đại diện cho vợ và chồng.
Điều này có nghĩa là, trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng là mảnh đất, nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất chỉ ghi tên vợ, thì việc này vẫn hoàn toàn hợp pháp, miễn là quyết định đó xuất phát từ thỏa thuận của hai vợ chồng. Pháp luật không yêu cầu bắt buộc phải ghi tên cả hai người trên Giấy chứng nhận. Việc Giấy chứng nhận chỉ ghi mình tên người vợ thì không đồng nghĩa với việc đây là tài sản riêng của người vợ.
Vợ bán đất đứng tên mình có cần chữ ký của chồng là người nước ngoài không?
Mặc dù đứng tên một mình nhưng đây là tài sản chung, được phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản chung phải do vợ chồng thỏa thuận. Ngoài ra việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong trường hợp tài sản chung là bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Theo đó, đối chiếu với trường hợp trên nếu vợ bán đất tuy chỉ đứng tên một mình nhưng cần phải có sự đồng ý của chồng là người nước ngoài. Do đó người vợ không được tự ý chuyển nhượng nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của chồng.