Thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài thương mại thực hiện theo quy trình nào?

Việc thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài thương mại được pháp luật quy định như thế nào? Hồ sơ đề nghị đăng ký nội dung thay đổi gồm những gì?

Nội dung chính

    Thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài thương mại thực hiện theo quy trình nào?

    Quy trình tiến hành thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động của Trung tâm trọng tài thương mại được quy định tại Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều 11 Nghị định 63/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Trọng tài Thương mại. Cụ thể là: 

    1. Khi có nhu cầu thay đổi về tên gọi, lĩnh vực hoạt động, Trung tâm trọng tài gửi hồ sơ đề nghị thay đổi tên gọi, lĩnh vực hoạt động đến Bộ Tư pháp. Hồ sơ đề nghị thay đổi gồm 01 bộ giấy tờ sau đây:
    a) Đơn xin thay đổi nội dung Giấy phép thành lập;
    b) Bản chính Giấy phép thành lập của Trung tâm trọng tài và giấy tờ liên quan đến việc thay đổi (nếu có).
    2. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ của Trung tâm trọng tài, Bộ Tư pháp có văn bản trả lời chấp thuận hay không chấp thuận nội dung đề nghị thay đổi; trường hợp không chấp thuận phải có văn bản trả lời nêu rõ lý do.
    3. Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày văn bản chấp thuận việc thay đổi nội dung Giấy phép có hiệu lực, Trung tâm trọng tài phải đăng ký việc thay đổi tại Sở Tư pháp, nơi Trung tâm trọng tài đăng ký hoạt động. Sở Tư pháp nơi đăng ký làm việc thay đổi thực hiện ghi nội dung thay đổi vào Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm. Hồ sơ đề nghị đăng ký nội dung thay đổi gồm 01 bộ giấy tờ sau đây:
    a) Đơn đề nghị thay đổi nội dung Giấy đăng ký hoạt động;
    b) Bản chính Giấy đăng ký hoạt động;
    c) Bản sao có chứng thực Giấy phép thành lập Trung tâm trọng tài; trong trường hợp nộp bản sao thì phải kèm theo bản chính để đối chiếu.

    Trên đây là quy định về quy trình đăng ký hoạt động của Chi nhánh Trung tâm trọng tài thương mại. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bạn nên tham khảo thêm Nghị định 63/2011/NĐ-CP.

    13