Mua bán đất bằng giấy viết tay vẫn có hiệu lực khi nào?
Nội dung chính
Giấy mua bán đất viết tay là gì?
Giấy mua bán đất viết tay được hiểu là việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bằng giấy tờ không có công chứng hoặc chứng thực.
Cụ thể, giữa các bên giao dịch sau khi thống nhất trên cơ sở tự nguyện mua bán, sẽ lập nên một giấy viết tay được xem như là một hợp đồng mua bán. Trên giấy mua bán đất này có đầy đủ chữ ký của các bên, tuy nhiên không được công chứng, chứng thực.
Theo đó, một bản hợp đồng được viết theo hình thức là giấy mua bán nhà đất viết tay sẽ không có được sự công nhận của nhà nước và pháp luật mà chỉ có sự thoả thuận của các bên với nhau dành cho hoạt động mua bán này.
Mua bán đất bằng giấy viết tay vẫn có hiệu lực khi nào?
Căn cứ theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 3 Điều 27 Luật Đất đai 2024, khi chuyển nhượng nhà đất phải công chứng hoặc chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự 2015.
Trường hợp thực hiện giao dịch mua bán đất nhưng không công chứng, chứng thực sẽ bị coi là giao dịch dân sự vô hiệu.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp giao dịch mua bán đất không có công chứng chứng thực (tức trường hợp mua bán đất bằng giấy viết tay) đều vô hiệu.
Cụ thể, tại khoản 1 tiểu mục XI Mục C Phần V Nghị định 151/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 01/7/2025) quy định các trường hợp sử dụng đất sau đây do nhận chuyển quyền sử dụng đất không đúng quy định của pháp luật nhưng có chữ ký của các bên liên quan mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định tại Mục 2 Phần XI này thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai 2024 và quy định tại Nghị định 151/2025/NĐ-CP mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất;
Cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp giấy tờ về việc nhận thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm d Mục 1 Phần I của “Phần B. HỒ SƠ THỰC HIỆN THỦ TỤC ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT”:
(2) Sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 8 năm 2024 mà có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 137 Luật Đất đai 2024;
(3) Sử dụng đất do nhận chuyển quyền sử dụng đất của người nhận thừa kế quyền sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 45 Luật Đất đai 2024.
Như vậy, trong 3 trường hợp nêu trên, giao dịch mua bán đất bằng giấy viết tay vẫn có thể thực hiện thủ tục đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực.
Cụ thể, đối với trường hợp đang sử dụng đất do nhận chuyển nhượng trước ngày 01/7/2014, khi làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận lần đầu, cơ quan tiếp nhận hồ sơ không được yêu cầu người nhận chuyển nhượng nộp hợp đồng hoặc văn bản chuyển quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Mua bán đất bằng giấy viết tay vẫn có hiệu lực khi nào? (Hình từ Internet)
Bán đất khi chưa có sổ đỏ bị phạt bao nhiêu tiền?
Căn cứ khoản 3 Điều 17 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 17. Chuyển quyền, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đủ điều kiện theo quy định
[...]
3. Hành vi chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất không đủ một trong các điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai thì hình thức và mức xử phạt như sau:
[...]
c) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi chuyển nhượng hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
[...]
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
[...]
c) Buộc nộp số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm;
d) Buộc đăng ký đất đai đối với trường hợp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định;
đ) Buộc đăng ký đất đai đối với trường hợp không trả lại được đất do bên chuyển quyền là tổ chức đã giải thể, phá sản, cá nhân đã chết mà không có người thừa kế hoặc chuyển đi nơi khác mà được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận tại thời điểm phát hiện hành vi vi phạm không xác định được địa chỉ và không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Luật Đất đai. Bên nhận chuyển quyền phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả do bên chuyển quyền thực hiện hành vi vi phạm gây ra trước khi chuyển quyền.
Bên cạnh đó tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 123/2024/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 5. Mức phạt tiền và thẩm quyền xử phạt
[...]
2. Mức phạt tiền quy định tại Chương II của Nghị định này áp dụng đối với cá nhân (trừ khoản 4, 5, 6 Điều 18, khoản 1 Điều 19, điểm b khoản 1 và khoản 4 Điều 20, Điều 22, khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Nghị định này). Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân có cùng một hành vi vi phạm hành chính.
[...]
Như vậy, người bán đất khi chưa có sổ đỏ (không đủ điều kiện chuyển nhượng theo Điều 45 Luật Đất đai 2024) sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu là cá nhân.
Trường hợp tổ chức vi phạm, mức phạt sẽ gấp đôi, tức từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
Ngoài ra, người vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả như:
(1) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ việc bán đất trái quy định;
(2) Buộc thực hiện đăng ký đất đai nếu đủ điều kiện cấp sổ đỏ;
(3) Trường hợp không thể trả lại đất, bên nhận chuyển nhượng phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả.