Bị chuốc say rượu để lừa ký hợp đồng tặng cho đất thì hợp đồng này có hiệu lực không?
Nội dung chính
Hợp đồng tặng cho đất là gì?
Theo Điều 457 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.
Hợp đồng tặng cho đất, theo quy định pháp luật hiện hành, không được định nghĩa cụ thể nhưng có thể hiểu đây là cách gọi thông thường, ngắn gọn của người dân để chỉ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, là một dạng hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định trên. Theo đó, hợp đồng tặng cho đất là văn bản thỏa thuận giữa bên tặng cho (người có quyền sử dụng đất hợp pháp) và bên được tặng cho, nhằm chuyển giao quyền sử dụng đất từ bên tặng cho sang bên nhận mà không yêu cầu đền bù hoặc thực hiện nghĩa vụ nào.
Bị chuốc say rượu để lừa ký hợp đồng tặng cho đất thì hợp đồng này có hiệu lực không? (Hình từ Internet)
Bị chuốc say rượu để lừa ký hợp đồng tặng cho đất thì hợp đồng này có hiệu lực không?
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập.
- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện.
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Theo đó, một trong những điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực là chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải có năng lực và thực hiện trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện.
Bên cạnh đó, Điều 128 Bộ luật Dân sự 2015 cũng nêu rõ, người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Trong trường hợp trên, người chuốc rượu đã lợi dụng lúc chủ đất say để lừa người này ký vào hợp đồng tặng cho đất đã được lập sẵn trước đó. Đối chiếu với các quy định nêu trên, giao dịch tặng cho được xác lập vào đúng thời điểm chủ đất bị chuốc say rượu, tức là không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, tham gia vào giao dịch tặng cho không hoàn toàn tự nguyện. Do đó, giao dịch tặng cho trên không đáp ứng đủ các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực và chủ đất có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho đất đó là vô hiệu.
Lưu ý: Để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho đất vô hiệu thì chủ đất cần phải có căn cứ chứng minh được là tại thời điểm ký vào hợp đồng tặng cho đất, mình đã bị chuốc say, không nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Nếu không có đủ căn cứ, hợp đồng này sẽ không có cơ sở để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên vô hiệu theo các quy định pháp luật.
Bị lừa ký hợp đồng tặng cho đất thì có đòi lại đất được không?
Theo Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015 quy định việc tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.
Bên cạnh đó, Điều 503 Bộ luật Dân sự 2015 cũng khẳng định rằng việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật Đất đai 2024.
Tại khoản 15 Điều 3 Luật Đất đai 2024 định nghĩa đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất là việc người sử dụng đất, người sở hữu tài sản gắn liền với đất, người được giao quản lý đất kê khai quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được ghi nhận theo quy định của Luật này. Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất bao gồm đăng ký lần đầu và đăng ký biến động.
Ngoài ra, việc tặng cho quyền sử dụng đất phải thực hiện đăng ký biến động theo điểm a khoản 1 Điều 133 Luật Đất đai 2024.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, bị lừa ký hợp đồng tặng cho đất có đòi lại đất được hay không phụ thuộc vào các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Giao dịch tặng cho đất chưa thực hiện đăng ký biến động:
Giao dịch tặng cho đất chưa thực hiện đăng ký biến động thì chưa có hiệu lực pháp luật. Do đó, quyền sử dụng mảnh đất này vẫn thuộc về chủ đất nên không cần đòi lại.
Trường hợp 2: Giao dịch tặng cho đất đã thực hiện đăng ký biến động:
Khi giao dịch đã hoàn tất đăng ký biến động, hợp đồng tặng cho đất có hiệu lực pháp luật. Lúc này, quyền sử dụng mảnh đất đã được chuyển giao hợp pháp cho người được tặng cho, và chủ đất ban đầu không còn quyền sử dụng đối với mảnh đất này.
Tuy nhiên, nếu hợp đồng được ký trong tình trạng chủ đất bị chuốc say rượu không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì cần xem xét hai tình huống sau:
(1) Nếu có đủ căn cứ chứng minh:
Nếu có đủ chứng cứ chứng minh rằng chủ đất bị chuốc say và bị lừa ký vào hợp đồng tặng cho đất trong tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi, hợp đồng này sẽ bị tuyên vô hiệu. Theo đó, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và người nhận tặng cho phải hoàn trả lại quyền sử dụng đất (khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015).
Để giải quyết, chủ đất có thể nộp đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền kèm theo minh chứng để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho người nhận tặng cho.
(2) Nếu không đủ căn cứ chứng minh:
Nếu không có đủ căn cứ để chứng minh việc ký hợp đồng tặng cho đất trong tình trạng bị chuốc say, không nhận thức và làm chủ được hành vi, chủ đất không có cơ sở để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Do đó, hợp đồng vẫn được coi là hợp pháp, và quyền sử dụng đất không thể được đòi lại.