Các trường hợp không được xuất cảnh
Nội dung chính
Theo Nghị định số 05/2000/NĐ-CP ngày 03/03/2000 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, công dân Việt Nam chưa được phép xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây: 1. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang có nghĩa vụ thi hành bản án hình sự hoặc đang bị cơ quan điều tra yêu cầu chưa cho xuất cảnh hoặc chưa cấp hộ chiếu để phục vụ công tác điều tra tội phạm. 2. Người đang có nghĩa vụ thi hành bản án; chờ để giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, hành chính; chờ để thi hành quyết định xử phạt hành chính; đang có nghĩa vụ nộp thuế hoặc các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ các trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản, bảo lãnh bằng tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó. 3. Người đã vi phạm quy chế xuất nhập cảnh bị xử phạt từ cảnh cáo hành chính trở lên thì chưa được xuất cảnh trong thời gian từ 1 đến 5 năm tính từ ngày bị xử lý vi phạm. 4. Người bị nước ngoài trục xuất vì vi phạm pháp luật của nước sở tại, nếu hành vi đó là nghiêm trọng, có hại cho lợi ích và uy tín của Việt Nam thì chưa được xuất cảnh trong thời gian từ 1 đến 5 năm, tính từ ngày trở về Việt Nam. 5. Người mà Bộ Y tế đề nghị chưa cho xuất cảnh vì lý do y tế. 6. Các trường hợp khác vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. Theo quy định nếu bạn không bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; đồng thời không phạm tội mới trong thời gian một năm kể từ ngày hết thời gian thử thách (điểm a, khoản 2, Điều 64 Bộ luật hình sự) thì bạn mới được xuất cảnh. Ví dụ: Ngày 10/12/2004, bạn hết hạn thử thách thì phải sau ngày 10/12/2005, mới được xuất cảnh, nếu bạn không phạm tội mới trong thời gian này.