Hiện trạng quy hoạch giao thông Hà Nội năm 2025 và nguyên nhân gây ùn tắc giao thông
Mua bán Đất tại Hà Nội
Nội dung chính
Hiện trạng quy hoạch giao thông Hà Nội năm 2025 và nguyên nhân gây ùn tắc giao thông
Ngày 07 tháng 12 năm 2025, Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội ký ban hành Kế hoạch 330/KH-UBND năm 2025 về triển khai thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu ùn tắc giao thông trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2026-2030 và những năm tiếp theo.
Theo Kế hoạch 330/KH-UBND năm 2025 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội về hiện trạng quy hoạch giao thông Hà Nội năm 2025 và nguyên nhân gây ùn tắc giao thông như sau:
[1] Hiện trạng quy hoạch giao thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội:
- Hạ tầng giao thông Thành phố hiện có tổng số 24.858 km đường bộ, tuy nhiên hệ thống đường vành đai, trục chính hướng tâm chưa đồng bộ, cầu qua sông Hồng còn chưa kịp đầu tư; 1557/1690 bãi đỗ xe theo quy hoạch chưa được đầu tư, tỷ lệ đất dành cho giao thông chỉ đạt 12,2%.
- Hệ thống vận tải hành khách công cộng hiện nay chủ yếu là xe buýt; Đường sắt đô thị mới khai thác được 01 tuyến hoàn chỉnh và 01 tuyến một phần. Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng mới đạt 19,7%.
- Dân số hiện nay khoảng 8,8 triệu với gần 9,38 triệu phương tiện trong đó xe máy chiếm 86% còn lại là ô tô. Tỷ lệ tăng phương tiện cá nhân 4-5%/ năm, tỷ lệ tăng dân số 1,9 - 2,1%/năm trong khi tốc độ tăng diện tích đất dành cho giao thông đạt khoảng 0,35% gây áp lực rất lớn lên kết cấu hạ tầng giao thông.
[2] Nguyên nhân gây ùn tắc giao thông trên địa bàn Thành phố Hà Nội:
- Nguyên nhân từ cung:
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông chưa được đầu tư hoàn thiện theo quy hoạch, cụ thể: Mạng lưới các tuyến đường giao thông thuộc hệ thống hạ tầng khung vẫn chưa hình thành đồng bộ theo quy hoạch; Hệ thống các tuyến đường hướng tâm kết nối đô thị trung tâm với đô thị vệ tinh vẫn chủ yếu khai thác trên cơ sở hệ thống đường quốc lộ hướng tâm hiện có; Hệ thống cầu vượt sông Hồng, sông Đuống kết nối khu vực 02 bên sông còn thiếu (sông Hồng mới hình thành được 09/18 cầu; sông Đuống mới hình thành được 04/08 cầu)
+ Mạng lưới đường sắt đô thị (phương tiện di chuyển xương sống trong đô thị) vẫn đang trong giai đoạn đầu tư và mới chỉ có 01 tuyến được đưa vào khai thác hoàn chỉnh (tuyến 2A Cát Linh - Hà Đông), 01 tuyến đưa vào khai thác đoạn 8,5 km đoạn trên cao (tuyến 3.1. Nhổn Ga - Hà Nội); loại hình vận tải hành khách khối lượng lớn (BRT) mới chỉ hình thành được 01/08 tuyến; chưa có tuyến xe điện 01 Ray nào được đầu tư hình thành; Tỷ lệ vận tải hành khách công cộng vẫn còn thấp mới chỉ đạt được 19,5%; Việc sử dụng phương tiện cá nhân phục vụ nhu cầu đi lại vẫn là chủ yếu, phổ biến của người dân trong đô thị.
+ Tổ chức giao thông, ứng dụng giao thông thông minh trong công tác quản lý, điều hành giao thông để tối ưu hóa kết cấu cơ sở hạ tầng giao thông hiện vẫn còn nhiều hạn chế và chưa có giải pháp mang tính tổng thể, lâu dài.
+ Quá trình tổ chức thi công các công trình giao thông gây thu hẹp mặt cắt các tuyến đường, dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông.
- Nguyên nhân từ cầu:
+ Mật độ dân cư lớn, tốc độ tăng dân số cơ học cao (khoảng 2.398 người/km2, cao gấp 8,2 lần so với mật độ dân số cả nước, tốc độ tăng dân số cơ học trung bình hằng năm 1,4%/năm) và tốc độ gia tăng phương tiện giao thông cá nhân (4- 5%/năm) cao hơn tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông (0,35%/năm) làm cho mật độ giao thông trên nhiều tuyến đường, nút giao thông rất lớn, đặc biệt là vào khung giờ cao điểm dẫn đến lưu lượng phương tiện thực tế trên nhiều tuyến đường, nút giao vượt quá lưu lượng thiết kế quy định.
+ Việc xây dựng các Khu đô thị vệ tinh theo quy hoạch chưa thực hiện được; Đề án di chuyển các cơ quan, trường học, bệnh viện vẫn tập trung trong nội đô; Các khu đô thị, khu nhà ở xây dựng phát triển nhanh tập trung vào khu vực nội thành. Những việc trên đã dẫn đến mật độ dân cư tập trung vào khu vực trong nội thành cao (từ Vành đai 3 trở vào) đồng nghĩa với việc lưu lượng phương tiện cá nhân tăng cao đặc biệt trong khung giờ cao điểm.
+ Ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông của người dân khi tham gia giao thông chưa cao, không tuân thủ nghiêm các quy định pháp luật. Công tác kiểm tra, xử lý các vi phạm về trật tự giao thông đường bộ đã được các lực lượng chức năng tăng cường thực hiện, có nơi, có lúc vẫn còn chưa kiên quyết, xử lý dứt điểm.
+ Khi xảy ra sự cố giao thông trên các tuyến trục chính, các cầu lớn (như đường Vành đai 3; Quốc lộ 1A cũ; Quốc lộ 5; Quốc lộ 6…) rất dễ xảy ra ùn tắc kéo dài. Một số các tuyến phố giao cắt với nhiều ngõ, đường ngang gây xung đột giao thông dẫn đến ùn tắc dây chuyền. Ngoài ra, do ảnh hưởng của thời tiết mưa, bão gây ra tình trạng úng ngập cục bộ dẫn đến ùn tắc giao thông. Các khu vực cổng trường học, bệnh viện, khu đô thị, khu vực tập trung mật độ giao thông cao vào giờ cao điểm dễ gây ùn tắc giao thông.
Trên là thông tin hiện trạng quy hoạch giao thông Hà Nội năm 2025 và nguyên nhân gây ùn tắc giao thông.
>> Xem chi tiết:
Kế hoạch 330/KH-UBND năm 2025 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội |

Hiện trạng quy hoạch giao thông Hà Nội năm 2025 và nguyên nhân gây ùn tắc giao thông (Hình từ Internet)
Cấp kỹ thuật của đường bộ thuộc quy hoạch giao thông Hà Nội bao gồm những gì?
Căn cứ khoản 2 Điều 10 Luật Đường bộ 2024 có nội dung quy định về cấp kỹ thuật của đường bộ thuộc quy hoạch giao thông TP Hà Nội bao gồm:
- Đường cao tốc;
- Đường cấp I, II, III, IV, V, VI;
- Đường đô thị;
- Đường cấp A, B, C, D, đường khác.
Việc đặt tên, số hiệu đường bộ thuộc quy hoạch giao thông Hà Nội quy định ra sao?
Căn cứ Điều 11 Luật Đường bộ 2024 có nội dung quy định về việc đặt tên, số hiệu đường bộ thuộc quy hoạch giao thông TP Hà Nội như sau:
- Việc đặt tên, số hiệu đường bộ được quy định như sau:
+ Tên đường bộ được đặt theo tên danh nhân, người có công với đất nước; di tích, sự kiện lịch sử, văn hóa; tên địa danh hoặc tên theo tập quán. Số hiệu đường bộ được đặt theo số tự nhiên hoặc số tự nhiên kèm theo chữ cái nếu cần thiết. Trường hợp đường đô thị trùng với đường khác thì sử dụng cả tên đường đô thị và tên, số hiệu của đường khác;
+ Tên, số hiệu đường bộ tham gia vào mạng lưới đường bộ quốc tế thực hiện theo điều ước quốc tế giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế có liên quan. Đường bộ kết nối vào mạng lưới đường bộ quốc tế thì sử dụng cả tên, số hiệu đường bộ trong nước và tên, số hiệu đường bộ quốc tế.
- Trường hợp có tuyến, đoạn tuyến đường bộ đi trùng nhau thì sử dụng tên, số hiệu đường bộ thuộc cấp quản lý cao hơn, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 11 Luật Đường bộ 2024.
- Không bắt buộc đặt tên, số hiệu đường bộ đối với đường xã, đường thôn, đường nội bộ, đường chuyên dùng; không bắt buộc đổi tên, số hiệu đường bộ trong trường hợp đường đó đi qua địa bàn được cấp có thẩm quyền quyết định giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính của địa phương.
