Số lượng tồn kho bất động sản năm 2024
Nội dung chính
Số lượng tồn kho bất động sản năm 2024
Ngày 17/12/2024, Bộ Xây dựng đã có Công văn số 6929/BXD-QLN gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương yêu cầu thực hiện việc công bố thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản Quý IV/2024 và cả năm 2024.
Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của 55/63 tỉnh/thành phố và các cơ quan liên quan, Bộ Xây dựng tổng hợp về tình hình thị trường bất động sản Quý IV/2024 và cả năm 2024 để báo cáo Thủ tướng Chính phủ và thực hiện công bố thông tin.
Căn cứ theo Điều 3 Mục III Báo cáo số 21/BC-BXD về việc công bố thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản trong quý IV/2024 và cả năm 2024 về số lượng tồn kho bất động sản năm 2024 như sau:
Số lượng tồn kho bất động sản tại các dự án trong quý IV/2024 vào khoảng 17.058 căn/nền (bao gồm chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền), trong đó: chung cư 1.072 căn; nhà ở riêng lẻ 11.218 căn; đất nền 4.768 nền. Theo đó, có thể thấy tỷ trọng tồn kho chủ yếu ở phân khúc bất động sản là nhà ở riêng lẻ và đất nền của các dự án.
Số lượng tồn kho bất động sản tại các dự án tiếp tục giảm so với quý III/2024, trong đó, phân khúc nhà chung cư bằng khoảng 22,87% so với quý III/2024; phân khúc đất nền bằng khoảng 52,98% so với quý III/2024 và phân khúc nhà ở riêng lẻ bằng khoảng 91,58% so với quý III/2024.
Nhìn chung, trong năm 2024, lượng tồn kho bất động sản trong các dự án đối với các phân khúc nhà ở chung cư, nhà ở riêng lẻ và phân khúc đất nền có xu hướng giảm.
Số lượng tồn kho bất động sản năm 2024 (Hình từ Internet)
Bối cảnh chung bất động sản của Quý IV/2024 và cả năm 2024
Theo Mục I Báo cáo số 21/BC-BXD về việc công bố thông tin về nhà ở và thị trường bất động sản trong quý IV/2024 và cả năm 2024 về bối cảnh chung bất động sản của Quý IV/2024 và cả năm 2024 như sau:
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê về công bố tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024 thì tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2024 ước tính tăng 7,55% so với cùng kỳ năm trước và duy trì xu hướng quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,98%, quý II tăng 7,25%, quý III tăng 7,43%).
Trong đó, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,35%, đóng góp 44,03%. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2024 theo giá hiện hành ước đạt 3.692,1 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% so với năm 2023, đồng thời vốn FDI thực hiện tại Việt Nam năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay (khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,5% và tăng 10,6%).
Theo nhận định của các Tổ chức, chuyên gia nghiên cứu kinh tế thì năm 2024, kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục, thương mại toàn cầu vẫn bấp bênh, đối mặt với nhiều rủi ro, bất định, bất ổn địa chính trị và xung đột quân sự gây ra biến động về giá xăng dầu, giá nguyên vật liệu,... tạo áp lực lên lạm phát, tăng trưởng toàn cầu chậm lại.
Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách, điều hành linh hoạt, hành động cụ thể, kịp thời hiệu quả cùng sự đồng hành của Quốc hội, theo đó kinh tế Việt Nam đã hóa giải được những khó khăn, bất cập trong năm 2024, đồng thời sẽ có nhiều triển vọng đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025 ở mức cao, tạo nền tảng và gia tốc để kinh tế Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới.
Trong năm 2024, Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành tích cực nghiên cứu, hoàn thiện nhiều cơ chế, chính sách để đảm bảo tính đồng bộ, liên thông của hệ thống pháp luật liên quan đến đất đai, xây dựng, nhà ở, kinh doanh bất động sản.
Đặc biệt, Chính phủ chỉ đạo ban hành các Nghị định hướng dẫn Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản để có hiệu lực ngày 01/8/2024.
Bên cạnh đó là hàng loạt các chỉ đạo, điều hành kịp thời, linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, ngành thông qua các nghị quyết, chỉ thị, công điện, quyết định, kết luận hội nghị, cuộc họp, văn bản chỉ đạo điều hành, đôn đốc, hướng dẫn tháo gỡ khó khăn đối với lĩnh vực bất động sản và một số lĩnh vực khác có tác động tương hỗ đến lĩnh vực bất động sản (như: tín dụng, trái phiếu,..).
Tất cả điều này đã tạo ra các xung lực mới, có tác động tích cực tới thị trường bất động sản.
Do đó, nguồn cung bất động sản năm 2024 tăng trưởng và có nhiều dự án quy mô lớn mở bán vào thời điểm cuối năm cùng các chính sách thanh toán ưu đãi, linh hoạt,…
Lượng giao dịch trong năm 2024 tiếp tục tăng trưởng ổn định khi nguồn cung được cải thiện cả về lượng và chất; nhu cầu mua bất động sản, bao gồm cả để ở và đầu tư vẫn cao tăng.
Tuy nhiên, thị trường bất động sản vẫn đang rất khan hiếm nguồn cung, đặc biệt là phân khúc nhà ở vừa túi tiền; giá đất, giá nhà ở tăng cao, nhất là giá nhà chung cư và giá đất nền tại một số địa phương do nhiều dự án còn bị đình trệ vì vướng mắc pháp lý; vướng mắc trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, chuyển mục đích sử dụng đất, xác định giá đất, tính tiền sử dụng đất, điều chỉnh quy hoạch,…
Trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện nền tảng pháp lý và sự đột phá về thể chế, hoàn thiện trong quy hoạch các cấp và việc đẩy mạnh đầu tư công…, theo đó sẽ trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lành mạnh, ổn định của thị trường bất động sản và phục hồi niềm tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư.
Vì sao số lượng tồn kho bất động sản năm 2024 ngày càng tăng?
Số lượng tồn kho bất động sản ngày càng tăng do nhiều nguyên nhân liên quan đến pháp lý, cung - cầu và tâm lý thị trường.
(1) Pháp lý ách tắc khiến dự án bị đình trệ
Theo Bộ Xây dựng, hàng tồn kho chủ yếu đến từ các dự án đủ điều kiện giao dịch nhưng chưa thể bán được. Nguyên nhân lớn nhất là pháp lý bị ách tắc trong nhiều năm qua.
- Tại TP HCM, có khoảng 143 dự án chờ tháo gỡ pháp lý.
- Tại Hà Nội, con số này lên đến 246 dự án.
- Nhiều địa phương khác cũng rơi vào tình trạng tương tự, khiến nguồn cung bị "đóng băng" dù nhu cầu vẫn có.
(2) Bất động sản đầu cơ gặp khó trong thanh khoản
Trong giai đoạn thị trường phát triển nóng, nhiều chủ đầu tư đã đổ vốn vào bất động sản đầu cơ như đất nền, nghỉ dưỡng tại các tỉnh lẻ. Khi thị trường chững lại, những sản phẩm này khó tìm khách mua, dẫn đến lượng hàng tồn kho cao mà không thể thanh khoản ngay cả khi đã hoàn thành.
(3) Nguồn cung lệch pha với nhu cầu thực tế
Phần lớn các dự án tồn kho thuộc phân khúc cao cấp, trong khi nhu cầu thực lại tập trung vào nhà ở giá rẻ. Do đó, dù có nhiều sản phẩm trên thị trường nhưng không đáp ứng đúng đối tượng khách hàng, dẫn đến tình trạng "thừa hàng nhưng vẫn thiếu nhà ở".
(4) Tâm lý chờ đợi và dòng tiền bị siết chặt
- Nhiều người mua nhà và nhà đầu tư vẫn đang chờ các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ hoặc kỳ vọng giá giảm thêm, khiến giao dịch chậm lại.
- Chính sách kiểm soát tín dụng vào bất động sản cũng khiến doanh nghiệp và người mua khó tiếp cận nguồn vốn, làm giảm khả năng mua bán trên thị trường.
(5) Nghịch lý tồn kho cao nhưng giá vẫn tăng
Dù lượng hàng tồn kho tăng mạnh, giá bất động sản tại Hà Nội, TP HCM vẫn tiếp tục tăng từ 4 - 6% so với quý trước và 22 - 25% so với cùng kỳ năm trước. Một số khu vực còn tăng đột biến từ 35 - 40%. Nguyên nhân do nguồn cung bị hạn chế cục bộ, cùng với việc giá vật liệu xây dựng và chi phí đầu tư tăng cao, khiến giá nhà khó giảm dù thị trường kém thanh khoản.
Tình trạng tồn kho bất động sản gia tăng là hệ quả của nhiều yếu tố pháp lý, đầu cơ và xu hướng thị trường. Nếu không có giải pháp tháo gỡ kịp thời, đặc biệt là trong vấn đề pháp lý và điều chỉnh cung - cầu, tình trạng này có thể kéo dài, gây áp lực lớn lên thị trường trong thời gian tới.