Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Chỉ thị 15/2003/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 15/2003/CT-TTg
Ngày ban hành 12/06/2003
Ngày có hiệu lực 16/07/2003
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phan Văn Khải
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 15/2003/CT-TTg

Hà Nội, ngày 12 tháng 6 năm 2003

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2004

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 09/2002/QHXI về dự toán ngân sách nhà nước và Nghị quyết số 14/2002/QHXI về nhiệm vụ năm 2003 của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và tập trung chỉ đạo các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương phát huy mọi nguồn lực, kịp thời xử lý, tháo gỡ các vướng mắc khó khăn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, phát triển các hoạt động dịch vụ, thúc đẩy xuất khẩu, thực hiện các giải pháp giảm chi phí để nâng cao khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm và toàn bộ nền kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, phát triển các mặt xã hội, văn hoá; bước đầu lập lại trật tự trên một số lĩnh vực như giao thông, trật tự an toàn xã hội, xử lý kịp thời và có hiệu quả những vấn đề mới phát sinh trong dịch bệnh SARS, giữ vững an ninh - quốc phòng.

Mặc dù trong những tháng đầu năm 2003, chúng ta phải đương đầu với một số khó khăn nhưng tình hình kinh tế - xã hội vẫn duy trì khả năng phát triển khá; GDP quý I tăng 6,9%, dự báo quý II tiếp tục theo chiều hướng phát triển tích cực.

Tuy nhiên, tình hình trong nước và thế giới trong thời gian tới, bên cạnh những thuận lợi có thể vận dụng, phát huy, còn đan xen những khó khăn, thách thức rất lớn, nhất là những khó khăn mới phát sinh do tác động của cuộc chiến tranh I Rắc chưa lường được hết, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), thêm vào đó, sắp đến mùa mưa lũ, thời tiết khí hậu đang có những diễn biến phức tạp....

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phát huy tinh thần sáng tạo, năng động, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện tốt các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2003 đã được đề ra trong Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2003 của Chính phủ về một số chủ trương, biện pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo thực thiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2003 và Nghị quyết các phiên họp Chính phủ thường kỳ năm 2003; phấn đấu hoàn thành thắng lợi các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và dự toán ngân sách nhà nước năm 2003, đồng thời, triển khai xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 với những yêu cầu và nội dung chủ yếu sau:

I. NỘI DUNG NHIỆM VỤ CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH NĂM 2004

1. Mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch năm 2004:

Năm 2004 là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch 5 năm. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, các cơ quan trung ương và các địa phương cần tập trung thực hiện tốt các mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu dưới đây:

a) Phấn đấu đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) không thấp hơn 7,5%, trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 10 - 10,5%; dịch vụ tăng 7,2 - 7,5%; nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3,9 - 4,2%. Tạo các điều kiện cần thiết để nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trong năm 2005.

b) Khẩn trương rà soát lại các quy hoạch đã được duyệt, nhất là các quy hoạch phát triển sản phẩm. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản xuất, sử dụng thế mạnh của từng vùng, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, hạn chế những sản phẩm kém cạnh tranh hoặc phải bảo hộ ở mức cao. Tiếp tục thực hiện chương trình giảm chi phí sản xuất, giảm dần và tiến tới loại bỏ những chi phí bất hợp lý, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.

c) Có chính sách thích hợp nhằm tăng tỷ lệ tích luỹ trong nước, huy động trên 35% GDP cho đầu tư phát triển; phấn đấu tổng thu ngân sách nhà nước đạt 20 - 21% GDP; thực hiện tốt Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi; tăng chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, thực hiện các chính sách xã hội và xoá đói, giảm nghèo.

Giảm nợ xấu, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ của hệ thống ngân hàng.

d) Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu, tìm thêm các thị trường mới. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; giải ngân nhanh và sử dụng có hiệu quả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tiếp tục thực hiện tốt lộ trình gia nhập AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

đ) Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến căn bản và toàn diện về phát triển khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; phát triển hệ thống dạy nghề; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý. Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất, kinh doanh; tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường.

e) Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc; đẩy nhanh tiến độ thực hiện các mục tiêu của Chương trình xoá đói, giảm nghèo, việc làm và Chương trình 135. Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội 6 tỉnh khó khăn ở miền núi phía Bắc, phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long.

ưg) Đẩy nhanh tiến trình cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế hành chính, củng cố tổ chức, bộ máy, xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ công chức và cải cách tài chính công. Tăng cường tính hiệu quả, minh bạch trong các chính sách của Nhà nước.

h) Tiếp tục củng cố quốc phòng và an ninh, kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục đấu tranh với các hoạt động tội phạm có tổ chức, bảo đảm trật tự kỷ cương trong xã hội.

Năm 2004 là năm đầu tiên thực hiện Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16 tháng 12 năm 2002, đồng thời cũng là năm triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Vì vậy, yêu cầu các cấp, các ngành quán triệt đầy đủ, tổ chức triển khai thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các Luật Thuế nêu trên.

Mục tiêu cơ bản của dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 là: thực hiện chính sách động viên hợp lý, bảo đảm nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát huy nội lực của các ngành, các địa phương, tập trung vốn, kinh phí để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng của đất nước; phân phối và sử dụng kinh phí đúng mục tiêu, tiết kiệm, có hiệu quả, chống lãng phí thất thoát, lành mạnh hoá ngân sách nhà nước để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Nhiệm vụ xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2004 là:

a) Dự toán thu ngân sách nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở tính đúng, tính đủ các khoản thu theo quy định của pháp luật và phân tích, dự báo các yếu tố về tăng trưởng kinh tế, thị trường, giá cả, ...; thực hiện đầy đủ các quy định về khuyến khích sản xuất, kinh doanh, tăng xuất khẩu, mở rộng thị trường; thực hiện những cam kết của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý thu, quản lý việc hoàn thuế giá trị gia tăng, chống thất thu, chống buôn lậu và gian lận thương mại.

Xây dựng dự toán thu ngân sách nhà nước với mức động viên phấn đấu 20 - 21% so với GDP, trong đó thu thuế và phí 18 - 19% so với GDP. Dự toán thu của các Bộ, cơ quan trung ương và các địa phương (không kể các khoản thu từ dầu thô) phải phấn đấu tăng bình quân trên 10% so với mức thực hiện năm 2003.

b) Dự toán chi ngân sách nhà nước tập trung thực hiện nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Dự toán chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước bảo đảm đủ vốn đối với các công trình trọng điểm quốc gia, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án thuộc Chương trình 135, Chương trình kiên cố hoá trường học, các dự án định canh, định cư, tái định cư các vùng lòng hồ của các công trình thuỷ điện lớn, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Tiếp tục bố trí vốn đầu tư để thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc đặc biệt khó khăn, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long; bảo đảm đủ vốn chuẩn bị đầu tư; bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA; tiếp tục bố trí vốn để phát triển giao thông nông thôn, hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản, hạ tầng các làng nghề, hạ tầng du lịch; thực hiện hỗ trợ cho sản xuất các sản phẩm quan trọng, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp; hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng tìm kiếm thị trường, cung cấp thông tin thị trường,…

- Dự toán chi phát triển sự nghiệp khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo - văn hoá - y tế - xã hội, phải bảo đảm kinh phí thực hiện chế độ, chính sách đối với từng lĩnh vực, từng ngành, từng vùng. Bố trí dự toán chi hành chính sự nghiệp ở mức hợp lý để thúc đẩy các đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cơ chế quản lý tài chính theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà nước chủ động đăng ký thực hiện cơ chế khoán biên chế và kinh phí theo Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ.

- Dự toán chi thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia bảo đảm tiến độ và mục tiêu theo Quyết định số 42/2002/QĐ-TTg ngày 19 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ.

- Tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy cải cách hành chính. Các Bộ, cơ quan trung ương, các địa phương và đơn vị sử dụng ngân sách cần quán triệt mục tiêu cải cách, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của cơ quan, đơn vị và địa phương; thực hiện các biện pháp tạo nguồn cải cách tiền lương ở từng cơ quan, đơn vị, cấp ngân sách từ các nguồn thu được để lại theo chế độ (tối thiểu 40%, riêng ngành y tế tối thiểu 35%), từ nguồn tăng thu (tối thiểu 50%), tiết kiệm chi thường xuyên không kể tiền lương và các khoản có tính chất lương (tối thiểu 10%).

[...]