CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 02/2003/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 17 tháng 1
năm 2003
|
Năm 2003 là năm "bản lề"
của kế hoạch 5 năm (2001-2005), những thành tựu và kết quả đạt được trong năm
2003 sẽ góp phần rất lớn cho việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX.
Nhằm triển khai các Nghị quyết của
Quốc hội khoá XI, Kỳ họp thứ hai về nhiệm vụ và dự toán ngân sách nhà nước năm
2003 và cụ thể hoá các chủ trương, chính sách đã đề ra, Chính phủ xác định một
số chủ trương, giải pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo trong năm 2003 như sau:
I. THÚC ĐẨY
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU, NÂNG CAO HIỆU QUẢ VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thích ứng với nhu cầu và cơ
chế hoạt động của thị trường, phát huy được lợi thế cạnh tranh, không ngừng
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Thuỷ sản chủ động phối hợp và hướng dẫn các địa
phương thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo
hướng tạo ra vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh, thâm canh có năng suất,
chất lượng cao, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tăng tỷ trọng
giá trị của ngành chăn nuôi, thuỷ sản và dịch vụ ngành nghề, giảm tỷ trọng giá
trị của ngành trồng trọt, đa dạng ngành nghề để tăng tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Bộ Công nghiệp chỉ đạo việc điều
chỉnh cơ cấu sản phẩm công nghiệp để hình thành những ngành hàng và sản phẩm giữ
vai trò động lực trong từng nhóm sản phẩm nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất của
ngành công nghiệp, trước hết là những sản phẩm hiện ta có khả năng xuất khẩu
cũng như các sản phẩm ta đang có tiềm năng thực hiện như : đóng tàu, động cơ nhỏ,
xe ô tô khách, xe tải nhẹ thông dụng, đóng mới toa xe,...
2. Trong năm 2003, tiếp tục tổ
chức thực hiện có hiệu quả Chương trình phát triển giống cây nông nghiệp, lâm
nghiệp, giống vật nuôi và giống thuỷ sản, bảo đảm có đủ giống tốt, giá cả hợp
lý cung cấp cho nhu cầu sản xuất của nông dân; đa dạng hoá các hình thức khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ chuyển giao công nghệ, cung cấp thông tin
thị trường để giảm giá đầu vào của sản phẩm nông nghiệp.
Khuyến khích những địa phương có
điều kiện thực hiện dồn điền, đổi thửa, chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục
đích sử dụng đất theo đúng quy hoạch và quy định của pháp luật về đất đai nhằm
tạo quy mô đất đai phù hợp với yêu cầu của sản xuất lớn trong nông nghiệp theo
hướng tập trung, chuyên canh, thâm canh gắn với cơ sở chế biến và thị trường
tiêu thụ, bảo đảm mục tiêu sản xuất 1 triệu tấn gạo chất lượng cao để xuất khẩu.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện cụ thể.
3. Các Bộ, ngành, địa phương khẩn
trương rà soát lại quy hoạch, trước hết là quy hoạch sử dụng đất, mặt nước, quy
hoạch phát triển ngành, quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở, khu công nghệ cao, quy hoạch các tuyến giao thông quan trọng, quy hoạch kết
cấu hạ tầng du lịch, quy hoạch đô thị, quy hoạch các trung tâm thương mại, các
khu kinh tế cửa khẩu
để điều chỉnh, bổ sung những nội dung không còn phù hợp
hoặc xây dựng quy hoạch mới nhằm phát huy tốt nhất lợi thế của từng ngành, từng
vùng, từng địa phương để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế. Đối với
một số quy hoạch chuyên ngành quan trọng, trong nước chưa có kinh nghiệm, cần
thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài thực hiện.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành quản lý
sản xuất khẩn trương ngay trong Quý I năm 2003 phối hợp với thành phố Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh hoàn thành quy hoạch ngành và sắp xếp doanh nghiệp nhà nước
nhằm khai thác tối ưu tài sản, năng lực của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế kinh doanh cùng ngành nghề trên cùng địa bàn.
Từ năm 2003, việc phê duyệt các
dự án thuộc mọi nguồn vốn, việc giao đất, giao rừng, giao mặt nước cho người sản
xuất phải tuân thủ đúng quy định của Luật Đất đai và phải theo đúng quy hoạch
được duyệt với thời gian phù hợp để người dân, doanh nghiệp yên tâm, chủ động đầu
tư sản xuất. Các Bộ, ngành và chính quyền địa phương chỉ cho phép thực hiện các
dự án phù hợp với quy hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định
cụ thể việc công bố công khai quy hoạch xây dựng chi tiết và các dự án đầu tư,
đặc biệt là chủ trương đầu tư đối với dự án khởi công mới, các quyết định phê
duyệt dự án khả thi (trừ những dự án hoặc những thông tin của dự án thuộc diện
không được công bố công khai) trên các phương tiện thông tin đại chúng để các tổ
chức và nhân dân tham gia ý kiến, tham gia giám sát trong quá trình thực hiện dự
án.
5. Các cơ quan của Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để quan hệ
liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, các cơ sở khoa học kỹ thuật, các tổ chức
tín dụng được thuận tiện, có hiệu quả trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm
sự hài hoà lợi ích của các bên, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người
sản xuất.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục theo dõi và sơ kết
kịp thời phương thức tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng giữa người sản xuất với
người tiêu thụ sản phẩm để bổ sung, điều chỉnh kịp thời.
6. Tiếp tục coi xuất khẩu là nhiệm
vụ trọng tâm trong năm 2003. Khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu đối với những sản
phẩm có sức cạnh tranh bằng mọi hình thức: tín dụng xuất khẩu, thưởng khuyến
khích xuất khẩu, xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu hàng hoá ... đi đôi với
việc hạn chế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có thể sản xuất được, giảm bớt
tình trạng nhập siêu. Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện cụ thể.
Trong việc điều chỉnh thuế suất
và phí, Bộ Tài chính chú trọng các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, sử dụng sản
phẩm trong nước sản xuất được.
7. Tiếp tục tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế tiếp cận các nguồn vốn để đầu
tư sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trong từng sản phẩm,
nhất là những sản phẩm có lợi thế về sản xuất, có thị trường tiêu thụ và những
sản phẩm thuộc nhóm hàng nằm trong lộ trình hội nhập với các nước trong khu vực.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối
hợp với Bộ Tài chính đề xuất biện pháp cụ thể vào Quý I năm 2003.
8. Các Bộ quản lý sản xuất, ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo việc đánh giá hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý; có biện
pháp cụ thể tổ chức lại sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và sản
phẩm để chủ động hội nhập theo đúng lộ trình giảm thuế và phi thuế mà nước ta
đã cam kết.
Bộ Tài chính và Bộ Thương mại
công bố rõ các lộ trình và phối hợp với các Bộ quản lý sản xuất chỉ đạo, hướng
dẫn các doanh nghiệp thực hiện ngay từ tháng 01 năm 2003.
9. Thực hiện việc Nhà nước tăng
cường kiểm soát độc quyền kinh doanh, giảm bảo hộ, kiểm soát, điều chỉnh giá của
một số sản phẩm độc quyền nhà nước hiện nay nhằm tạo động lực về cạnh tranh để
các doanh nghiệp tự vươn lên, phát triển. Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm hoạt
động của một số doanh nghiệp kinh doanh không thuộc lĩnh vực độc quyền nhưng tự
bảo đảm điều kiện hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường và đã thành công
trong việc tạo ra được các mặt hàng có khả năng cạnh tranh với sản phẩm của nước
ngoài để có biện pháp xoá bỏ dần độc quyền trong kinh doanh hiện nay.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện
việc tổng kết trong Quý II năm 2003.
10. Đẩy mạnh việc lành mạnh hoá
tài chính doanh nghiệp để đến năm 2005 hoàn thành cơ bản việc
chuyển doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn sang công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đối với doanh nghiệp mà Nhà
nước không cần nắm giữ 100% vốn.
Tập trung kiện toàn tổ chức, cơ
chế quản lý đối với các Tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước; đồng thời
đẩy mạnh chuyển đổi chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ, doanh nghiệp
nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang hình thức công ty cổ
phần đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Xử lý nghiêm khắc, kể cả việc thay thế,
cho thôi chức vụ đang đảm nhiệm đối với những cán bộ không thực hiện nghiêm túc
đề án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã được cấp trên có thẩm quyền phê duyệt.
Trong Quý III năm 2003, Bộ Tài
chính cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ mô hình cụ thể về đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước theo hướng làm rõ chức năng quản lý nhà nước và chức
năng đại diện chủ sở hữu của các cơ quan quản lý nhà nước, bảo đảm quyền chủ động
trong sản xuất, kinh doanh và tự chủ về tài chính của doanh nghiệp nhà nước.
11. Triển khai thực hiện các định
chế trung gian trong lĩnh vực tài chính như Công ty đầu tư tài chính, Công ty
mua bán nợ và hỗ trợ chuyển đổi sở hữu, Công ty tư vấn tài chính, định giá tài
sản... để tạo thêm công cụ đổi mới phương thức đầu tư, lành mạnh hoá tài chính
doanh nghiệp, thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với
doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết Trung ương 3, Khoá IX.
12. Không chuyển các khoản nợ
ngân sách nhà nước và nợ có nguồn gốc từ ngân sách, nợ vay ngân hàng thành vốn
cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiệu suất sinh lời trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh phải được coi là một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp.
13. Đình,
hoãn khởi công các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư. Tập trung vốn đầu tư của Nhà
nước cho các dự án quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện mục
tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các dự án có thể hoàn thành trong năm đưa vào
khai thác sử dụng. Những đơn vị còn nhiều dự án dở dang, thời gian thi công kéo
dài thì không được khởi công các dự án mới. Chấm dứt tình trạng ứng vốn để thực
hiện dự án đối với dự án đầu tư xây dựng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê
duyệt, kể cả những dự án do các cơ quan trung ương quản lý.
14. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy chế đầu tư theo hình thức hợp đồng
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) áp dụng cho đầu tư trong nước. Cho
phép thực hiện đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao (BOT) trong nước đối với một số dự án, nếu phần vốn thuộc sở hữu doanh
nghiệp không đủ mức 30% thì sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong dự toán chi
ngân sách đã được giao để bảo đảm tỷ lệ tối đa 30% như quy định tại Nghị định số
77/CP ngày 18 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ.
15. Bộ Giao thông vận tải, Bộ
Tài chính nghiên cứu ban hành quy định giao quyền thu phí có thời hạn đối với
các công trình cầu, đường được phép thu phí. Trước mắt, cho áp dụng thực hiện đối
với quốc lộ 51, quốc lộ 5 và quốc lộ 10, đường Láng - Hoà Lạc.
16. Thực hiện thí điểm việc
doanh nghiệp tư nhân trong nước đã được giao quyền sử dụng đất lâu dài được cho
nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn được giao quyền sử dụng đất.
Trong Quý II năm 2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình Thủ tướng Chính phủ
ban hành cơ chế quản lý cụ thể để có căn cứ thực hiện, giám sát việc thí điểm
này.
1. Các chủ đầu tư, các địa
phương phải huy động tối đa các nguồn lực của các thành phần kinh tế trong và
ngoài nước để tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển, coi đây là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm thúc đẩy và mở rộng sản xuất để hoàn thành các mục
tiêu phát triển năm 2003.
2. Doanh nghiệp trực tiếp đầu tư
vào các lĩnh vực mới, tạo sản phẩm quan trọng, các lĩnh vực rủi ro cao, lĩnh vực
phát triển công nghệ thông tin, phần mềm tin học, dịch vụ phát triển mạng thông
tin theo những tiêu chuẩn hiện đại, tiên tiến của thế giới nhằm nâng cao sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, ngoài ưu đãi được hưởng theo quy
định, còn được xem xét bảo lãnh để nhập thiết bị phục vụ trực tiếp cho dự án đầu
tư. Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện cụ thể.
3. Vốn tín dụng đầu tư của Nhà
nước cần tập trung cho các khu vực, lĩnh vực then chốt, dự án quan trọng trực
tiếp phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mở rộng diện được ưu đãi sau đầu tư, thu hẹp đối tượng vay vốn trực tiếp từ Quỹ
Hỗ trợ phát triển.
4. Khuyến khích đầu tư các công
trình có khả năng thu hồi vốn bằng nguồn phát hành trái phiếu công trình.
Bộ Tài chính khẩn trương nghiên cứu
trình Thủ tướng Chính phủ việc phát hành trái phiếu ngoại tệ để huy động ngoại
tệ trong nước cho mục tiêu cơ cấu lại nợ quốc gia, đầu tư cho một số công trình
trọng điểm của Nhà nước.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện việc đa dạng hóa các hình thức góp vốn đầu tư phát
triển và kinh doanh cơ sở hạ tầng; khuyến khích và thực hiện hỗ trợ thích hợp từ
ngân sách nhà nước đối với việc đầu tư xây dựng công trình hạ tầng nông thôn,
công trình ngoài hàng rào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao
thuộc mọi thành phần kinh tế.
6. Các địa phương thuộc các vùng
kinh tế trọng điểm, có điều kiện vay và khả năng trả nợ, được phát hành trái
phiếu đầu tư để huy động vốn trong nước xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
tạo điều kiện thu hút đầu tư và phát triển lâu dài trên địa bàn, theo nguyên tắc
tự vay, tự trả, bảo đảm ổn định tình hình tài chính quốc gia.
Bộ Tài chính hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện chủ trương này.
7. Tổng kết, đánh giá việc bố
trí và sử dụng các nguồn vốn hỗ trợ từ trung ương cho địa phương theo các mục
tiêu cụ thể như phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng du lịch, hạ tầng
nuôi trồng thuỷ sản, làng nghề... để bảo đảm đúng chủ trương và mục tiêu đầu
tư, thúc đẩy sự phát triển ngành, giải quyết việc làm, góp phần tạo ra tốc độ
tăng trưởng kinh tế của từng địa phương nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
các Bộ và địa phương tổng kết, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện
trong Quý III năm 2003.
8. Tiếp tục cải thiện môi trường
đầu tư để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển nhanh các ngành công nghiệp hỗ trợ; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành
chính, quy trình xử lý, thẩm định, cấp phép và quản lý nhà nước sau cấp phép đối
với các dự án đầu tư nước ngoài theo hướng quy định rõ trách nhiệm của từng cơ
quan, từng cấp, từng ngành trong rà soát, điều chỉnh quy định về đầu tư nước
ngoài, phối hợp xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, trong xúc tiến đầu tư
nước ngoài. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài. Đẩy mạnh thực hiện lộ
trình giảm các chi phí đầu tư, thu hẹp, tiến tới xoá bỏ chênh lệch về giá dịch
vụ đầu vào, thu hẹp sự cách biệt về thuế suất giữa doanh nghiệp trong nước với
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định cụ
thể các nội dung để hướng dẫn thực hiện trong Quý II năm 2003, đồng thời có kế
hoạch đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, tập trung vào các địa bàn
có tiềm năng.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuẩn bị
nội dung và biện pháp để triển khai thực hiện thí điểm cho phép nhà đầu tư nước
ngoài thành lập công ty cổ phần và chuyển một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đang hoạt động thành công ty cổ phần.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính quy định các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra khả năng hài hoà hơn về thủ
tục giữa Việt Nam với nhà tài trợ để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn ODA; đẩy nhanh công tác giải phóng mặt bằng, giao đất theo đúng
tiến độ và bố trí đủ vốn đối ứng để thực hiện dự án, nhất là các dự án hoàn
thành trong năm 2003, năm 2004 để đẩy nhanh việc giải ngân thực hiện các dự án
theo các hiệp định đã ký kết.
11. Ngân sách nhà nước (trung
ương và địa phương) ưu tiên đầu tư đối với các chương trình nghiên cứu khoa học,
phát triển công nghệ phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện hỗ trợ cho đổi
mới công nghệ, cho áp dụng công nghệ mới của các doanh nghiệp, hỗ trợ để doanh
nghiệp, hộ nông dân, cơ sở nghiên cứu khoa học thực hiện việc liên kết trong
nghiên cứu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ cơ quan nghiên cứu tạo lập mối
liên kết với các công ty lớn và các cơ quan khoa học công nghệ của nước ngoài
trong việc cung cấp, chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại. Bộ Khoa học
và Công nghệ nghiên cứu trình Chính phủ chính sách và giải pháp cụ thể.
12. Nghiên cứu
xây dựng các quy định về điều kiện, năng lực, trách nhiệm của cá nhân và các cơ
quan tư vấn trong việc lập dự án đầu tư và thiết kế; thẩm quyền và trách nhiệm
của chủ đầu tư; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong giao thầu, nhận thầu,
trong thi công, giám sát, nghiệm thu, bảo hành, bảo trì công trình. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Xây dựng ban hành quy định cụ thể.
Nghiên cứu để sớm
sửa đổi Quy chế đấu thầu, sửa đổi, bổ sung các quy định về định mức, đơn giá
xây dựng, đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát chất lượng thi công, giám sát giá
xây dựng trong đầu tư, kịp thời phát hiện những sai phạm trong tổ chức thi
công, nghiệm thu công trình. Nếu phát hiện có những sai phạm, phải đình chỉ thi
công để có biện pháp khắc phục. Các tổ chức giám sát phải có vị thế độc lập với
chủ đầu tư, với đơn vị tổ chức thi công xây dựng; khắc phục tình trạng các tổ
chức giám sát và tổ chức thi công thuộc cùng một cơ quan quản lý nhằm ngăn chặn
hiện tượng thông đồng, thoả hiệp trong giám sát, nghiệm thu, quyết toán làm ảnh
hưởng đến chất lượng công trình, gây lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng khẩn trương nghiên cứu trình Thủ tướng Chính
phủ.
Người có thẩm
quyền quyết định ở khâu nào phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình tại
khâu đó. Người đứng đầu đơn vị phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra những lãng
phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng ở các dự án, công trình thuộc phạm vi quản
lý.
13. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì cùng các cơ quan hữu quan đề xuất chủ trương điều chỉnh cơ chế
đấu thầu và đầu tư xây dựng cơ bản nhằm giảm bớt sơ hở trong khâu đấu thầu và
lãng phí lớn trong đầu tư xây dựng cơ bản.
1. Các Bộ, cơ quan Trung
ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao nhiệm vụ thu, chi ngân
sách cho các đơn vị ngay từ tháng 01 năm 2003. Nhiệm vụ thu phấn đấu cao hơn mức
dự toán Thủ tướng Chính phủ giao, nhiệm vụ chi phải đúng mức dự toán được giao.
Thực hiện thông báo công khai việc phân bổ, giao dự toán thu, chi ngân sách
theo đúng quy định.
2. Triển khai tổ chức thực hiện
nhiệm vụ thu ngân sách theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường công tác kiểm
tra trước và sau hoàn thuế giá trị gia tăng, xử lý nghiêm vi phạm; thu hồi các
khoản chiếm dụng tiền hoàn thuế. Kiên quyết chống thất thu, chống buôn lậu,
gian lận thương mại, trốn lậu thuế, chống nợ đọng thuế.
3. Bảo đảm nguồn ngân sách năm
2003 để thực hiện cải cách tiền lương theo đúng Nghị quyết của Quốc hội. Ngân
sách địa phương dành tối thiểu 50% số tăng thu năm 2002 so dự toán Hội đồng
nhân dân đã quyết định; 50% số tăng thu dự toán năm 2003 so dự toán 2002 Thủ tướng
Chính phủ đã giao; thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên 10% (không kể tiền
lương và có tính chất lương) của dự toán chi năm 2003; 35 - 40% số thu được để
lại theo chế độ của các đơn vị sự nghiệp, hành chính; chủ động dành 50% số tăng
thu của năm 2003 so dự toán đã được Thủ tướng Chính phủ giao để tạo nguồn thực
hiện cải cách tiền lương năm 2003 và năm sau. Sau khi đã thực hiện các biện
pháp trên mà vẫn không đủ nguồn thì ngân sách trung ương sẽ bổ sung để bảo đảm
nguồn thực hiện chế độ tiền lương mới.
4. Thực hiện bổ sung có mục tiêu
từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương thay cho cơ chế đầu tư trở lại
(hoặc cấp lại) theo dự toán thu từ các nguồn thu trên địa bàn.
5. Triển khai việc phát hành
"công trái giáo dục" để thực hiện Chương trình kiên cố hoá trường học,
lớp học. Tiếp tục vận động sự đóng góp của các doanh nghiệp và của toàn xã hội
cho Chương trình này.
6. Từ năm 2003, không thực hiện
việc trợ giá hoặc cấp cho không máy thu thanh cho đồng bào sống ở vùng sâu,
vùng xa mà sử dụng kinh phí này hỗ trợ các địa phương để đầu tư phát triển các
trạm phát thanh, truyền thanh cụm, xã dân cư ở các tỉnh miền núi, vùng đồng bào
dân tộc. ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với các Bộ : Tài chính, Kế hoạch và Đầu
tư, Văn hoá - Thông tin hướng dẫn cụ thể việc thực hiện chủ trương này.
7. Các Bộ, các cơ quan Trung
ương và ủy ban nhân dân các cấp sớm hoàn thành việc giao quyền tự chủ về tổ chức
biên chế, cán bộ, tiền lương và tài chính, tài sản cho các đơn vị sự nghiệp
theo Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ. Bộ Tài
chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan hướng dẫn cụ thể các bước tiến hành
và có cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ các đơn vị sau khi được giao
quyền.
8. Thực hiện cơ chế thưởng cho
ngân sách địa phương :
- Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt
hàng sản xuất trong nước: thưởng 100% số vượt thu ngân sách Trung ương so với dự
toán được giao.
- Đối với phần thu vượt dự toán
được giao về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập
khẩu : thưởng 100% số vượt thu từ 20 tỷ đồng trở xuống và 50% của phần vượt
trên 20 tỷ đồng, tổng số thưởng tối đa không quá 50 tỷ đồng.
- Đối với các khoản thu phân
chia: thưởng 20% của phần thực thu ngân sách Trung ương năm 2003 cao hơn thực
thu 2002.
- Việc thưởng vượt thu của thành
phố Hà Nội, thực hiện theo Pháp lệnh về Thủ đô Hà Nội số 29/2000/PL-UBTVQH ngày
28 tháng 12 năm 2000 của ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Số thưởng vượt thu nêu trên được
sử dụng để bổ sung vào đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện nhiệm vụ quan
trọng, đột xuất phát sinh ở địa phương và thưởng cho ngân sách cấp dưới.
9. Tổ chức thực
hiện dự toán ngân sách năm 2003 :
a) Đối với ngân sách nhà nước:
- Số tăng thu so với dự toán (nếu
có) được sử dụng để giảm bội chi ngân sách nhà nước, tăng chi trả nợ, tăng đầu
tư phát triển, bổ sung nguồn thực hiện chế độ tiền lương mới, tăng quỹ dự trữ
tài chính, tăng dự phòng ngân sách để chủ động đối phó với thiên tai và xử lý
các nhiệm vụ đột xuất phát sinh.
- Nếu số thu giảm lớn so với dự
toán, chủ động xây dựng phương án điều chỉnh dự toán trình ủy ban Thường vụ Quốc
hội xem xét, quyết định. Giữ mức bội chi ngân sách Nhà nước không quá 5% tổng sản
phẩm trong nước (GDP).
b) Đối với ngân sách địa phương
:
- Số tăng thu so với dự toán (nếu
có) được sử dụng để tăng chi trả nợ, tăng chi đầu tư phát triển, bổ sung nguồn
để thực hiện chế độ tiền lương mới, tăng quỹ dự trữ tài chính, tăng dự phòng
ngân sách để chủ động đối phó với thiên tai và xử lý các nhiệm vụ đột xuất phát
sinh.
- Nếu số thu giảm so với dự
toán, phải giảm chi tương ứng ở những khoản chi chưa thực sự cấp thiết.
10. Bộ Tài chính tổ chức tổng kết
việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp và xây dựng các luật thuế mới nhằm khuyến khích và tạo điều kiện để nâng
cao khả năng cạnh tranh, phù hợp với tiến trình hội nhập.
11. Bộ Tài chính nghiên cứu
trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định thẩm quyền chi tiêu tiền thuộc ngân
sách thật chặt chẽ, rõ ràng và công khai; quy định rõ thủ trưởng của một đơn vị
được chi những khoản gì, bao nhiêu; đồng thời, quy định quyền xuất toán của cán
bộ tài chính, cán bộ kho bạc khi phát hiện khoản chi không đúng chế độ.
12. Giữ ổn định giá trị đồng Việt
Nam, bảo đảm kiểm soát được lạm phát không quá 5% để bảo đảm được cân đối chung
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hoàn thiện và đổi mới điều hành chính sách tiền
tệ theo hướng nâng cao năng lực phân tích, dự báo để chủ động điều tiết thị trường
tiền tệ thông qua các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp.
13. Các tổ chức
tín dụng được chủ động lựa chọn, quyết định và tự chịu trách nhiệm việc cho vay
không phải áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản theo quy định về bảo đảm
tiền vay. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu ban hành quy định về mức cho
vay không phải bảo đảm bằng tài sản đối với những người vay là hợp tác xã, hộ
nông dân đã sản xuất hàng hoá lớn, có dự án khả thi, có khả năng trả nợ ngân
hàng.
14. Các tổ chức
tín dụng được sử dụng nguồn vốn huy động để góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín
dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải
bố trí vốn từ ngân sách để góp vốn điều lệ của Qũy theo đúng Quyết định số
193/2001/QĐ-TTg ngày 20 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ.
15. Tập trung và có biện pháp
tích cực trong việc xử lý nợ tồn đọng; bổ sung vốn điều lệ của các ngân hàng
thương mại nhà nước và các ngân hàng chính sách; thực hiện đề án củng cố, hoàn
chỉnh, lành mạnh hoá hệ thống các tổ chức tín dụng.
16. Mở rộng và phát triển các dịch
vụ tiện ích ngân hàng hiện đại để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. Hoàn thiện
các cơ chế pháp lý về thanh toán séc, thẻ ngân hàng; phát triển hệ thống thanh
toán điện tử liên ngân hàng để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền
kinh tế.
17. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
nghiên cứu ban hành Quy định về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cho vay chiết khấu
chứng từ; nâng tỷ lệ sử dụng tối đa vốn huy động ngắn hạn của các ngân hàng
thương mại để cho vay trung và dài hạn.
18. ủy ban Chứng khoán Nhà nước
cần có biện pháp cụ thể để tiếp tục củng cố, phát triển thị trường chứng khoán ổn
định, an toàn, vững chắc; khuyến khích, tạo điều kiện để tăng thêm lượng hàng
hoá có chất lượng, tăng thêm doanh nghiệp lớn, có uy tín, các ngân hàng thương
mại cổ phần và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia niêm yết
trên thị trường chứng khoán; đồng thời, tập trung chỉ đạo để khẩn trương đưa
Trung tâm Giao dịch chứng khoán ở thành phố Hà Nội vào hoạt động.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo tập
trung thực hiện các giải pháp đổi mới chương trình giảng dạy, sách giáo khoa;
tiếp thu ý kiến đóng góp về sách giáo khoa lớp 1, lớp 6 để điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện; làm tốt việc biên soạn sách giáo khoa lớp 2, lớp 7; cung cấp kịp thời,
đầy đủ thiết bị dạy học cho các trường học; thực hiện cải tiến chương trình, nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục trong các trường dân tộc nội trú để học sinh
tốt nghiệp tại các trường này có đủ trình độ (khả năng) tham gia vào công việc
quản lý xây dựng làng, bản. Triển khai thực hiện tốt các quy định về phát triển
giáo dục mầm non, chương trình thực hiện kiên cố hoá trường, lớp học.
2. Tập trung làm tốt công tác
tuyển sinh đại học, cao đẳng, tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục nghề nghiệp.
Tiếp tục chấn chỉnh việc dạy thêm ở các trường phổ thông, chấn chỉnh việc mở rộng
quy mô đào tạo hệ không chính quy. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá đi đôi với việc
tăng cường quản lý trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tăng cường quản lý chất
lượng đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, đào tạo của hệ thống trường dân lập. Chỉ
cho phép mở cơ sở đào tạo mới khi đã chuẩn bị đủ các điều kiện về cơ sở vật chất,
đội ngũ giáo viên và chương trình đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế
hoạch và triển khai thực hiện ngay trong Quý I năm 2003
3. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ trong
Quý II năm 2003 việc thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia.
Xây dựng cơ chế liên kết giữa cơ sở nghiên cứu, đào tạo với đơn vị sản xuất,
kinh doanh; cơ chế, chính sách tạo động lực phát triển cho hoạt động nghiên cứu
khoa học, đào tạo, sử dụng nhân lực khoa học.
4. Tập trung chỉ đạo triển khai
các chương trình công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
công nghệ tự động hoá, xây dựng Khu công nghệ cao Hoà Lạc, Khu công nghệ cao
thành phố Hồ Chí Minh và các phòng thí nghiệm trọng điểm Quốc gia; xây dựng Chiến
lược phát triển khoa học công nghệ biển và công nghệ vũ trụ.
5. Bộ Tài nguyên và Môi trường
khẩn trương hoàn thiện Đề án Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt; đồng thời chuẩn bị các điều kiện để chỉ đạo, hướng dẫn
triển khai thực hiện "Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng" ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
6. Chủ động tập trung giải quyết
nhanh, dứt điểm các bệnh dịch, không để dịch lớn xảy ra; làm tốt công tác quản
lý, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tổ chức triển khai thực hiện việc lập Quỹ khám,
chữa bệnh cho người nghèo. Tăng cường công tác giáo dục về vệ sinh môi trường,
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trong Quý II năm 2003, Bộ Y tế
trình Chính phủ cơ chế và giải pháp triển khai Chiến lược Quốc gia về chăm sóc
sức khoẻ sinh sản và Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng; đồng thời, triển khai
có hiệu quả các mục tiêu Quốc gia phòng chống các bệnh xã hội, phòng, chống
HIV/AIDS, phòng, chống suy dinh dưỡng trẻ em trên phạm vi toàn quốc. Thực hiện
chính sách và biện pháp tích cực để đào tạo cán bộ y tế ở các vùng khó khăn,
vùng sâu, vùng xa. Triển khai thực hiện thí điểm giao quyền tự chủ quỹ lương ở
bệnh viện.
7. Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế
lồng ghép sử dụng nguồn lực của các chương trình, dự án xoá đói, giảm nghèo. Tiếp
tục thực hiện cơ chế các cơ quan, địa phương có điều kiện hơn giúp đỡ xã nghèo
thực hiện xoá đói, giảm nghèo. Khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển làng
nghề, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chỉ đạo việc xây dựng thí điểm
mô hình liên kết giữa Tổng công ty với hộ, với xã nghèo phát triển vùng nguyên
liệu, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm; xây dựng mô hình canh tác trên ruộng bậc
thang, bảo đảm an ninh lương thực ở xã vùng cao; xây dựng mô hình phát triển
nuôi trồng thuỷ sản gắn với xoá đói giảm nghèo ở xã bãi ngang ven biển và xây dựng
mô hình nhà ở gắn với xây dựng cụm, tuyến dân cư vùng đồng bằng sông Cửu Long;
xây dựng mô hình xã tổ chức và hỗ trợ người nghèo đi xuất khẩu lao động. Tập
trung chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh Tây Nguyên, các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, các tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc theo đúng các
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế,
ủy ban Dân tộc theo chức năng, nhiệm vụ được giao, phối hợp với các cơ quan
liên quan hướng dẫn thực hiện cụ thể chủ trương này.
8. Bảo đảm đủ nguồn vốn và triển
khai mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng Chính sách Xã hội; chỉ đạo thực hiện tốt việc
lồng ghép các chương trình, dự án sản xuất, kinh doanh, chuyển đổi cơ cấu, lựa
chọn cây trồng, vật nuôi, ngành nghề, các chương trình chuyển giao công nghệ,
khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hướng dẫn thị trường với việc
sử dụng vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách Xã hội; kết hợp chương trình kinh
tế với chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng và chương trình văn hoá - xã hội nhằm
hỗ trợ người vay sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và hạn chế rủi ro.
9. Đẩy mạnh cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá"; xây dựng lối sống văn
minh, lành mạnh; tạo điều kiện để nhân dân được hưởng thụ, tham gia các hoạt động
và sáng tạo văn hoá. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá, khuyến khích
và tạo điều kiện để huy động nguồn lực cho phát triển văn hoá, coi đầu tư cho
văn hoá là đầu tư cho con người và đầu tư cho phát triển bền vững kinh tế - xã
hội.
V. LẬP LẠI TRẬT
TỰ, AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ,DUY TRÌ VÀ BẢO ĐẢM TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI
1. Lấy năm 2003 là năm thiết lập
trật tự an toàn giao thông trên phạm vi toàn quốc. Khẩn trương triển khai Nghị
quyết kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá IX về việc vận động toàn dân tham gia giữ gìn
trật tự, an toàn giao thông. Chính quyền địa phương các cấp chủ động xây dựng mục
tiêu, nội dung cụ thể, phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của từng địa phương để
phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội thực hiện cuộc vận động, tạo ra sự
chuyển biến thực sự cả trong nhận thức và hành động của từng người dân trong việc
nâng cao ý thức chấp hành luật lệ giao thông.
2. Các Bộ, ngành, địa phương
theo chức năng và thẩm quyền, phải chủ động triển khai thực hiện tốt 9 giải
pháp cấp bách của Nghị quyết số 13/2002/NQ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2002 của
Chính phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn giao
thông, ùn tắc giao thông. Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, thị xã
trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo trật tự, an toàn giao thông của địa phương. Mỗi
địa phương phải xây dựng chương trình hành động cụ thể và chỉ đạo chặt chẽ việc
thực hiện các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn, ùn tắc
giao thông.
3. Bộ Công an, Bộ Giao thông vận
tải phối hợp với các địa phương, trước hết là các thành phố: Hà Nội, Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng xây dựng kế hoạch và biện pháp cụ thể xử lý, ngăn chặn,
giảm tai nạn giao thông đường bộ; đồng thời, đề ra biện pháp để hạn chế gia
tăng số lượng xe máy ở các đô thị.
4. Bộ Nội vụ và Bộ Công an bổ
sung lực lượng cảnh sát giao thông để bảo đảm có đủ lực lượng giữ gìn trật tự,
an toàn giao thông phù hợp với điều kiện của từng địa phương, nhất là đối với
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Thực hiện việc xử phạt vi phạm đối
với mọi hành vi vi phạm khi tham gia giao thông (kể cả người đi bộ) với mức phạt
hợp lý, tiến hành thường xuyên liên tục. Bộ Công an phối hợp với Bộ Giao thông
vận tải và Bộ Tài chính quy định cụ thể xử lý nghiêm các hành vi vi phạm luật lệ
giao thông.
5. Xây dựng và triển khai thực
hiện cơ chế phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức trong việc huy động các lực lượng
tình nguyện tham gia với lực lượng cảnh sát giao thông thiết lập trật tự, an
toàn giao thông trong năm 2003. Trước hết là sự phối hợp giữa Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh với chính quyền các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ. Thí điểm tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh việc phân định
thẩm quyền và trách nhiệm cụ thể của từng cấp chính quyền trong việc tổ chức,
quản lý khôi phục bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn quận theo chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 1640/CP-CCHC ngày 19 tháng 12 năm
2002.
6. Tiếp tục chỉ
đạo các cơ quan pháp luật điều tra, truy xét đến cùng và xét xử công khai đối với
những kẻ phạm tội, bất kỳ ở cương vị nào. Tấn công truy quét, trấn áp kịp thời
tội phạm có tổ chức, tội phạm tham nhũng, buôn lậu, tội phạm ma tuý, xoá bỏ các
tụ điểm tệ nạn xã hội, buôn bán ma tuý. Phấn đấu năm 2003 giảm mạnh số vụ việc
về tội phạm và tệ nạn so với năm 2002, nhất là các vụ trọng án. Tấn công
trấn áp tội phạm hình sự theo từng chuyên đề, theo tuyến và cụm địa bàn trọng
điểm như Hà Nội và các tỉnh giáp ranh; tuyến biên giới phía Bắc, Đông Bắc; tuyến
miền Trung - Tây Nguyên; thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh miền Đông, miền Tây
Nam Bộ.
7. Chính phủ tăng cường chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện đúng trách nhiệm và thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan
chính quyền các cấp trong việc giải quyết khiếu nại của công dân. Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải dành thời gian thích đáng cho công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, đảm bảo việc xem xét giải quyết
theo đúng quy định về khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại phải thực hiện
công khai, dân chủ, đúng pháp luật theo nguyên tắc là chính quyền các cấp, đặc
biệt là cấp cơ sở phải trực tiếp xem xét, giải quyết khiếu nại của công dân;
chính quyền cấp trên phải tăng cường kiểm tra giám sát, tập trung và khẩn
trương giải quyết dứt điểm những trường hợp cấp dưới đã xử lý để khắc phục oan,
sai; đồng thời, phải xử lý kịp thời những cán bộ có sai phạm, cấp dưới không chấp
hành nghiêm túc hoặc thực hiện không đúng chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan hành
chính cấp trên.
Tổng Thanh tra Nhà nước xây dựng,
trình Chính phủ Đề án giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, làm rõ các nội
dung cụ thể về tiếp dân, xử lý đơn thư vượt cấp, thi hành các quyết định xử lý,
giải quyết đã có hiệu lực pháp luật theo nguyên tắc trên.
8. Nghiên cứu trình ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành các quy định giải quyết tình hình khiếu nại đông người, việc
chấp hành các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật, xử lý
những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để xúi giục người khác đi khiếu nại,
gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ.
1. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp căn cứ
Quy chế làm việc của Chính phủ chỉ đạo rà soát sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc
của Bộ, ngành, địa phương mình. Tinh thần chỉ đạo của Quy chế này là phải làm
rõ sự phân công theo nguyên tắc một việc chỉ do một người, một tổ chức chịu
trách nhiệm; định rõ trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra và thực hiện việc chỉ đạo
sâu sát của người đứng đầu; mỗi cấp lãnh đạo, mỗi người thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ, sử dụng đúng thẩm quyền, không ôm đồm làm thay, không đùn đẩy
trách nhiệm; giảm bớt và cải tiến nội dung các cuộc họp, dành nhiều thời gian nắm
tình hình, kiểm tra và hướng dẫn cấp dưới thực hiện.
2. Ban hành Nghị định của Chính
phủ về phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương theo
nguyên tắc công việc do cấp nào làm có hiệu quả, tiện cho dân và doanh nghiệp
thì giao cho cấp đó thực hiện, trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất về thể chế quản
lý nhà nước; trách nhiệm thẩm quyền trong công việc phải đi liền với trách nhiệm
và thẩm quyền về tổ chức, nhân sự và về sử dụng kinh phí. Năm 2003 thực hiện
phân cấp quản lý biên chế sự nghiệp đối với tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đổi mới cơ chế quản lý tiền lương theo hướng xã hội hoá. Bộ Nội vụ phối hợp
với các cơ quan khẩn trương chuẩn bị đề án trình Chính phủ xem xét thông qua,
triển khai áp dụng trong Quý I năm 2003.
3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương phải có kế hoạch kiểm tra, thanh tra việc chấp
hành pháp luật trong ngành, lĩnh vực, địa phương mình phụ trách, coi đó là nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên và là nội dung kiểm tra của thủ trưởng cơ quan hành
chính cấp trên với cấp dưới.
4. Thực hiện nguyên tắc thủ trưởng
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có quyền tạm thời đình chỉ công tác đối với
cán bộ cấp dưới vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm hoặc không hoàn thành nhiệm
vụ bất kể thuộc quyền trực tiếp quản lý của cấp nào và giao cho cơ quan quản lý
cán bộ đó tiến hành kiểm điểm, xem xét kỷ luật hành chính. Người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm đầy đủ trong việc quản
lý, điều hành cơ quan thực thi công vụ và chịu trách nhiệm liên đới về vi phạm
pháp luật của tổ chức và cán bộ, công chức thuộc cơ quan mình phụ trách.
5. Trong Quý I năm 2003, sửa đổi
Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 về xử lý kỷ luật và trách
nhiệm vật chất đối với công chức, trong đó bổ sung trách nhiệm liên đới của cán
bộ lãnh đạo, quản lý để xảy ra các vụ tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan đơn vị
được giao phụ trách.
6. Chính quyền địa phương các cấp
phải thực hiện kiên quyết, đúng thẩm quyền việc thu hồi diện tích đất đã giao
các doanh nghiệp nhà nước nhưng không sử dụng, hoặc sử dụng sai mục đích,
nghiêm trị những trường hợp cưỡng lệnh. Thi hành kỷ luật cán bộ công chức vi phạm
qui định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng đất đai, đặc biệt vi phạm về
lấn chiếm đất công hoặc ép buộc dân để chiếm đất, chuyển nhượng đất trái phép;
những sai phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản, xây trụ sở, mua sắm trang thiết bị
sai tiêu chuẩn.
7. Trong Quý II năm 2003, Thanh
tra Nhà nước hoàn chỉnh đề án đổi mới công tác tiếp dân và tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra của hệ thống bộ máy hành chính nhà nước cùng với dự án Luật
Thanh tra để Chính phủ xem xét trình Quốc hội.
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ cụ thể hoá và triển khai thực hiện ngay Chương trình công
tác của Chính phủ năm 2003.
2. Từ năm 2003, tất cả các cơ
quan, từ Trung ương đến địa phương thực hiện công bố công khai tất cả công việc
(trừ những nội dung thuộc bí mật quốc gia đã quy định) của mình để nhân dân biết,
tham gia ý kiến và giám sát thực hiện. Bộ Tư pháp và Bộ Công an hướng dẫn cụ thể
nội dung thuộc bí mật quốc gia.
3. Các Bộ, cơ quan Chính phủ,
chính quyền địa phương các cấp hàng tháng, hàng quý đánh giá kết quả thực hiện
chương trình công tác, kế hoạch và ngân sách của đơn vị, của ngành mình; phát
hiện và tìm các biện pháp khắc phục, hỗ trợ kịp thời giải quyết các khó khăn,
vướng mắc của cấp dưới và cơ sở; những vấn đề vượt quá thẩm quyền, cần tập hợp
và đề xuất biện pháp giải quyết, báo cáo cấp trên quyết định.
4. Chính phủ duy trì các biện
pháp giao ban chuyên đề để triển khai kiểm điểm tình hình và đề ra các biện
pháp đẩy mạnh thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước hàng quý.