Chỉ thị 14/2002/CT-TTg về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2003 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
Số hiệu | 14/2002/CT-TTg |
Ngày ban hành | 28/06/2002 |
Ngày có hiệu lực | 13/07/2002 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Thủ tướng Chính phủ |
Người ký | Nguyễn Tấn Dũng |
Lĩnh vực | Tài chính nhà nước |
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 14/2002/CT-TTg |
Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2002 |
VỀ VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2003
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ và dự toán ngân sách nhà nước năm 2002, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách và tập trung chỉ đạo tháo gỡ khó khăn trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, khắc phục hậu quả nặng nề của hạn hán và các vấn đề xã hội bức xúc, thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2002.
Tuy nhiên, nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn gay gắt. Nhằm phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ và dự toán ngân sách nhà nước năm 2002, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu lãnh đạo các Bộ, cơ quan Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nâng cao trách nhiệm, chỉ đạo thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội năm 2002 đã đề ra trong các Nghị quyết của Chính phủ, đặc biệt là Nghị quyết số 05/2002/NQ- CP ngày 24 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về một số giải pháp để triển khai thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2002.
Về nhiệm vụ xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2003 được tiến hành với những yêu cầu và nội dung chủ yếu sau:
I. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH NĂM 2003
1. Mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2003:
Năm 2003 là năm thứ 3 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế hoạch 5 năm 2001 - 2005. Đây là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đề ra cho kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, kết quả thực hiện kế hoạch năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2003 là: Thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và ổn định; có bước chuyển mạnh về cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với khai thác tốt thị trường trong nước. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong hoạt động kinh tế - xã hội. Tiếp tục thực hiện xoá đói, giảm nghèo, cải thiện mức sống của dân cư; giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; giữ vững trật tự và an toàn xã hội.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2003 cần tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2001 và năm 2002, tạo các điều kiện để nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn trong những năm tiếp theo.
- Tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển lâm nghiệp phù hợp với tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng trên 4,5%; giảm mạnh chi phí sản xuất để có giá trị gia tăng (GDP) toàn ngành khoảng 3,3%.
Khuyến khích ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất sạch, đổi mới công nghệ chế biến một số sản phẩm nông nghiệp, trước hết là chế biến cà phê, cao su, chè, hạt điều, thịt, sữa, hàng thuỷ sản... nhằm nâng cao năng suất, bảo đảm chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khuyến khích sản xuất và tiêu thụ đối với một số sản phẩm nông nghiệp có khả năng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ tốt. Phát triển mạnh ngành nghề truyền thống, làng nghề và kết cấu hạ tầng ở nông thôn để tạo thêm việc làm mới, tạo bước dịch chuyển lao động nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Chủ động phòng chống thiên tai, đối phó với tình hình diễn biến xấu của thời tiết.
- Phát triển công nghiệp với tốc độ cao, tập trung vào những sản phẩm đang có lợi thế và có tính cạnh tranh cao, cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Duy trì tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp 14%; phấn đấu giảm chi phí trong sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, sử dụng triệt để và hiệu quả nguồn nguyên liệu trong nước để có giá trị gia tăng (GDP) toàn ngành trên 10%.
Nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, đầu tư chiều sâu, ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế tạo, nhất là công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến phục vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 3. Đẩy mạnh việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả; đồng thời tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp đã được cổ phần hoạt động có hiệu quả cao. Tiếp tục mở rộng thí điểm Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, hình thành một số tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, dầu khí, điện lực, xây dựng.
- Phát triển đa dạng và nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ như du lịch, dịch vụ tài chính, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn pháp luật, bưu chính viễn thông, vận tải. Phấn đấu giá trị các ngành dịch vụ tăng trên 7%; giảm chi phí trung gian trong các ngành dịch vụ, nhằm đạt giá trị gia tăng (GDP) của ngành dịch vụ khoảng 6,6%. Xây dựng cơ chế để thu hút vốn đầu tư của các tầng lớp nhân dân cho phát triển dịch vụ, du lịch.
- Mở rộng thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn, thị trường miền núi, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước.
2. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, chỉ nhập khẩu những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được. Củng cố thị trường đã có và tích cực mở rộng thị trường mới, chú trọng thị trường Mỹ. Nâng cao nhận thức của các ngành, địa phương, đặc biệt là các doanh nghiệp về sự cấp bách và tính cạnh tranh ngày càng gay gắt trong hội nhập quốc tế hiện nay. Từng bước nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, tăng nhanh tỷ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến tinh, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và công nghệ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
3. Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách nhà nước, ưu tiên đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách xã hội và xoá đói, giảm nghèo; tăng chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ. Thực hiện triệt để tiết kiệm đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tài sản nhà nước.
Tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá tài chính, tín dụng, nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ của hệ thống ngân hàng. Tập trung đầu tư vào các dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, có tác động đến nhiều ngành kinh tế, có tỷ lệ xuất khẩu cao.
4. Tăng nhanh đầu tư xã hội, cải thiện cơ bản tỷ lệ tích luỹ và tiêu dùng, huy động trên 35% GDP cho đầu tư phát triển; trong đó ngân sách nhà nước chi cho đầu tư phát triển không thấp hơn 25% tổng số chi ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Không trở lại cơ chế bao cấp.
5. Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến căn bản về phát triển giáo dục và đào tạo, phát triển hệ thống dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; tiếp tục triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở. Đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến hiện đại, đồng thời áp dụng kết quả đã nghiên cứu vào sản xuất; tăng cường công tác bảo vệ và cải thiện môi trường.
6. Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc, thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là chương trình xoá đói, giảm nghèo và việc làm. Mở rộng sự tham gia đóng góp và giám sát của người dân đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo, vùng nghèo. Tiếp tục tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội 6 tỉnh khó khăn ở miền núi phía Bắc, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long.
7. Đẩy mạnh cải cách hành chính trên các lĩnh vực: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức và cải cách tài chính công. Tăng cường tính hiệu quả và tính minh bạch của các chính sách nhà nước. Khẩn trương hoàn thiện Đề án cải cách tiền lương để sớm đưa vào thực hiện.
8. Củng cố quốc phòng và an ninh, kết hợp giữa quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục đẩy mạnh trấn áp các hoạt động tội phạm, đảm bảo trật tự kỷ cương trong các hoạt động kinh tế - xã hội.
Mục tiêu cơ bản xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2003: Thực hiện chính sách động viên hợp lý, đảm bảo nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của đất nước; tăng cường phát huy nội lực của các ngành, các địa phương, chủ động tập trung nguồn lực thực hiện những nhiệm vụ quan trọng; nguồn thu thuế và phí phải bảo đảm chi thường xuyên, trả được các khoản nợ đến hạn, có tích lũy cho đầu tư phát triển; phân phối và sử dụng kinh phí đúng mục tiêu, tiết kiệm, có hiệu quả, chống lãng phí thất thoát, lành mạnh hoá ngân sách nhà nước để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.