Việt Nam tham gia công ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới khi nào?

Việt Nam tham gia công ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới khi nào? Nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là gì?

Nội dung chính

    Việt Nam tham gia công ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới khi nào?

    Việt Nam chính thức tham gia Công ước về Bảo vệ Di sản Văn hóa và Di sản Thiên nhiên Thế giới của UNESCO vào ngày 19/10/1987. Đây là một bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự cam kết của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, thiên nhiên theo tiêu chuẩn quốc tế.

    Công ước này được UNESCO thông qua vào năm 1972, nhằm mục đích bảo vệ các di sản có giá trị nổi bật toàn cầu khỏi các nguy cơ hủy hoại do thiên nhiên và con người gây ra. Việc Việt Nam tham gia công ước giúp mở ra nhiều cơ hội trong công tác bảo tồn di sản, tiếp cận nguồn tài trợ quốc tế, cũng như nâng cao ý thức của cộng đồng trong việc giữ gìn các giá trị văn hóa, lịch sử và thiên nhiên.

    Sau khi tham gia công ước, Việt Nam đã tích cực đề cử các di sản tiêu biểu của mình vào danh sách Di sản Thế giới. Năm 1993, Quần thể di tích Cố đô Huế trở thành di sản đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận. Tiếp đó, hàng loạt di sản khác như Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long, Quần thể danh thắng Tràng An cũng lần lượt được vinh danh.

    Nhờ việc tham gia Công ước, Việt Nam đã có thêm động lực và điều kiện để bảo vệ, trùng tu các di sản, đồng thời thúc đẩy du lịch văn hóa bền vững, góp phần nâng cao hình ảnh đất nước trên trường quốc tế.

    Việt Nam tham gia công ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới khi nào?

    Việt Nam tham gia công ước về bảo vệ di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới khi nào? (Hình từ Internet)

    Nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể là gì?

    Căn cứ tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 39/2024/NĐ-CP quy định về những nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể như sau:

    Nguyên tắc trong thực hành, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể
    1. Nguyên tắc trong thực hành di sản văn hóa phi vật thể:
    a) Cộng đồng chủ thể phải đảm bảo duy trì tính liên tục trong thực hành di sản văn hóa phi vật thể đúng với giá trị, bản chất và chức năng của di sản; giảm nguy cơ mai một, thất truyền;
    b) Bảo đảm gìn giữ giá trị của di sản với các hình thức thể hiện, hiểu biết, kỹ năng, kỹ thuật và không gian thực hành liên quan; không đưa những yếu tố không phù hợp vào di sản;
    c) Bảo đảm bao quát quy trình thực hành, nội dung, hoạt động, các yếu tố cấu thành của di sản với sự tham gia của cộng đồng chủ thể vào thực hành di sản;
    d) Không phổ biến và thực hành sai lệch nội dung di sản;
    đ) Không lợi dụng thực hành di sản và danh hiệu của di sản để trục lợi hoặc thực hiện các hành vi, hoạt động trái pháp luật;
    e) Bảo đảm tôn trọng và bảo vệ giá trị tôn giáo, tín ngưỡng, tập quán, tính thiêng của nghi lễ và không gian thực hành của di sản văn hóa phi vật thể.
    2. Nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể:
    a) Bảo đảm quyền và nguyên tắc thực hành di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng chủ thể;
    b) Bảo đảm các di sản văn hóa phi vật thể được thực hành hướng con người, cộng đồng tới các giá trị văn hóa tốt đẹp; gìn giữ bản sắc; hướng tới sự phát triển xã hội toàn diện; bảo đảm an toàn cộng đồng và xã hội; bảo vệ môi trường;
    c) Bảo đảm tôn trọng sự đa dạng văn hóa, vai trò của cộng đồng chủ thể và tính đặc thù dân tộc, vùng miền. Di sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng khác nhau đều được tôn trọng như nhau;
    d) Bảo đảm tôn trọng quyền của các cộng đồng chủ thể trong việc quyết định những yếu tố cần được bảo vệ và phát huy của di sản văn hóa phi vật thể và hình thức, mức độ cần được bảo vệ, phát huy;
    đ) Ưu tiên bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di sản của cộng đồng các dân tộc sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nhóm dân tộc có khó khăn, đặc thù, di sản có giá trị toàn cộng đồng, xã hội;
    e) Ưu tiên quyền quyết định của cộng đồng chủ thể vì sự tồn tại, thực hành lâu dài, liên tục của di sản, phù hợp với ý nghĩa và chức năng của di sản, phù hợp với pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam và văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

    Như vậy, nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể được quy định như trên.

    Chuyên viên pháp lý Nguyễn Xuân An Giang
    saved-content
    unsaved-content
    11