Trường hợp dữ liệu điện tử chưa đủ có được thực hiện giao dịch mua bán đất bỏ công chứng theo đề xuất mới không?
Nội dung chính
Trường hợp dữ liệu điện tử chưa đủ có được thực hiện giao dịch mua bán đất bỏ công chứng theo đề xuất mới không?
Căn cứ khoản 4 Điều 1 dự thảo Nghị quyết về bỏ thủ tục công chứng, xác định tình trạng hôn nhân trong các giao dịch mua bán đất, phương tiện giao thông có nội dung như sau:
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Nghị quyết này quy định việc bỏ yêu cầu thực hiện công chứng hợp đồng, xác nhận tình trạng hôn nhân và xuất trình bản sao giấy tờ cá nhân trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự thuộc một số lĩnh vực cụ thể, đối với các trường hợp đã có dữ liệu số hóa, xác thực đầy đủ trên hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành.
2. Các giao dịch được điều chỉnh theo Nghị quyết này bao gồm:
a) Giao dịch mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất;
b) Giao dịch mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, đăng ký sang tên quyền sở hữu phương tiện giao thông.
3. Các nội dung cụ thể được loại bỏ trong quá trình thực hiện giao dịch gồm:
a) Bộ yêu cầu nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đối với công dân đã có thông tin hôn nhân được cập nhật, xác thực và chia sẻ từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử,
b) Bỏ yêu cầu công chứng hoặc chứng thực hợp đồng giao dịch trong trường hợp các bên đã được định danh, xác thực điện từ mức cao theo quy định pháp luật và hợp đồng được lập, ký, lưu trữ trên nền tảng điện từ có khả năng truy xuất, kiểm tra, bảo đảm toàn vẹn dữ liệu và giá trị pháp lý tương đương hợp đồng công chứng;
c) Bỏ yêu cầu xuất trình bản sao giấy tờ cá nhân, giấy tờ tài sản nếu các thông tin liên quan đã có trong cơ sở dữ liệu và được cơ quan tiếp nhận tra cứu, xác minh thành công.
4. Việc thực hiện quy định tại Nghị quyết này được áp dụng trên phạm vi toàn quốc đối với các trường hợp đủ điều kiện dữ liệu điện tử, các trường hợp chưa đủ điều kiện tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành cho đến khi hoản tất số hóa, xác thực thông tin.
Như vậy, việc thực hiện quy định tại dự thảo Nghị quyết bao gồm đề xuất bỏ công chứng mua bán đất được áp dụng đối với các trường hợp đủ điều kiện dữ liệu điện tử.
Các trường hợp chưa đủ điều kiện tiếp tục thực hiện theo quy định hiện hành cho đến khi hoàn tất số hóa, xác thực thông tin.

Trường hợp dữ liệu điện tử chưa đủ có được thực hiện giao dịch mua bán đất bỏ công chứng theo đề xuất mới không? (Hình từ Internet)
Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai bao gồm các thành phần nào?
Căn cứ khoản 1 Điều 165 Luật Đất đai 2024 về cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai bao gồm các thành phần sau đây:
- Cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật về đất đai;
- Cơ sở dữ liệu địa chính;
- Cơ sở dữ liệu điều tra, đánh giá, bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất;
- Cơ sở dữ liệu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Cơ sở dữ liệu giá đất;
- Cơ sở dữ liệu thống kê, kiểm kê đất đai;
- Cơ sở dữ liệu về thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai;
- Cơ sở dữ liệu khác liên quan đến đất đai.
Có phải trả phí khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai không?
Căn cứ khoản 5 Điều 166 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:
Điều 166. Quản lý, vận hành, khai thác và kết nối liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai
[...]
5. Việc khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai được quy định như sau:
a) Dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai có giá trị sử dụng chính thức, tương đương văn bản giấy được cơ quan có thẩm quyền cung cấp;
b) Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu của Bộ, ngành, địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
c) Người sử dụng đất được khai thác thông tin của mình trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai;
d) Tổ chức, cá nhân không thuộc quy định tại điểm b và điểm c khoản này có nhu cầu khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai theo quy định của pháp luật;
đ) Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân được tiếp cận, khai thác thông tin, dữ liệu về đất đai theo quy định của pháp luật. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân phản hồi, cung cấp, bổ sung thông tin cho cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai;
e) Việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai phải trả phí khai thác, sử dụng tài liệu đất đai và giá cung cấp dịch vụ thông tin, dữ liệu về đất đai theo quy định;
g) Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí khai thác và sử dụng tài liệu đất đai từ Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai; Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định giá sản phẩm, dịch vụ gia tăng sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin đất đai theo quy định của pháp luật về giá.
[...]
Như vậy, việc khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai phải trả phí khai thác, sử dụng tài liệu đất đai và giá cung cấp dịch vụ thông tin, dữ liệu về đất đai theo quy định.
