Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ ở đâu?

Chuyên viên pháp lý: Nguyễn Xuân An Giang
Tham vấn bởi Luật sư: Phạm Thanh Hữu
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ ở đâu? Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ là di tích quốc gia đặc biệt đúng không?

Nội dung chính

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ ở đâu?

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ là một kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, nổi tiếng với kiến trúc độc đáo và giá trị văn hóa lâu đời.

    Chùa Cổ Lễ nằm tại thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định (nay là xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình).

    Chùa Cổ Lễ được khởi dựng từ thời Lý (thế kỷ XII).

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ có tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 12 tầng, chuông đồng nặng hơn 9 tấn, hồ bán nguyệt và nhiều hạng mục thể hiện phong cách kết hợp hài hòa giữa kiến trúc truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng phương Tây.

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ ở đâu?

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ ở đâu? (Hình từ Internet)

    Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ là di tích quốc gia đặc biệt đúng không?

    Căn cứ khoản 4 Điều 1 Quyết định 1959/QĐ-TTg năm 2025 quy định như sau:

    Điều 1. Xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 18, năm 2025) các di tích sau:
    1. Di tích lịch sử Mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, phường Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
    2. Di tích lịch sử Những địa điểm ghi dấu Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) tại Nghệ An.
    3. Danh lam thắng cảnh và Khảo cổ Quần thể Tam Chúc, phường Tam Chúc, tỉnh Ninh Bình.
    4. Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ, xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình.
    Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản và Bản đồ các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ.

    Theo đó, Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Cổ Lễ, xã Cổ Lễ, tỉnh Ninh Bình được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt (đợt 18, năm 2025).

    Di tích lịch sử - văn hóa thuộc sở hữu toàn dân do ai đại diện chủ sở hữu?

    Căn cứ Điều 4 Luật Di sản văn hóa 2024 quy định như sau:

    Điều 4. Sở hữu di sản văn hóa
    1. Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một bộ phận của di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Nhân dân. Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ di sản văn hóa thuộc hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung theo quy định của Hiến pháp, quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
    2. Di sản văn hóa được xác lập thuộc sở hữu toàn dân bao gồm:
    a) Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản tư liệu và hiện vật thuộc di tích; hiện vật, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia và di sản tư liệu thuộc các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập và không thuộc quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này;
    b) Hiện vật, di sản tư liệu thuộc bảo tàng công lập;
    c) Di sản văn hóa ở trong lòng đất, dưới nước thuộc đất liền, hải đảo, vùng nước nội địa, vùng biển Việt Nam;
    d) Di sản văn hóa dưới nước có nguồn gốc Việt Nam nằm ngoài các vùng nước nội địa, vùng biển Việt Nam được xác lập sở hữu toàn dân theo quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
    đ) Di sản văn hóa do cơ quan, tổ chức, đơn vị công lập sưu tầm theo các phương thức quy định tại khoản 1 Điều 42 và khoản 2 Điều 58 của Luật này;
    e) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do bảo tàng công lập sưu tầm, lưu giữ, bảo quản, phát huy giá trị;
    g) Tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu được xác lập sở hữu toàn dân theo quy định của Bộ luật Dân sự khi được xác định là di sản văn hóa;
    h) Tài sản là di sản văn hóa do chủ sở hữu tự nguyện chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước; không có người nhận thừa kế và tài sản là di sản văn hóa khác thuộc về Nhà nước theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công;
    i) Di sản văn hóa phi vật thể không xác định được chủ thể sáng tạo và chủ sở hữu hoặc do cộng đồng, nhóm người, cá nhân sáng tạo, thực hành, trao truyền, nắm giữ và kế thừa chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước;
    k) Trường hợp khác do luật quy định.
    3. Di sản văn hóa được xác lập sở hữu riêng bao gồm:
    a) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân sưu tầm, lưu giữ;
    b) Di vật, cổ vật do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định của Bộ luật Dân sự;
    c) Di tích lịch sử - văn hóa, hiện vật, di sản tư liệu thuộc di tích, di sản tư liệu do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân khởi lập, tạo dựng, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị;
    d) Bí quyết, kỹ năng thực hành di sản văn hóa phi vật thể do 01 cá nhân sáng tạo, kế thừa, nắm giữ, thực hành và trao truyền;
    đ) Trường hợp khác do luật quy định.
    [...]

    Như vậy, di tích lịch sử - văn hóa thuộc sở hữu toàn dân được Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

    saved-content
    unsaved-content
    1