Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở nước nào của Đông Nam Á?
Nội dung chính
Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở nước nào của Đông Nam Á?
Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á chính là Đảng Cộng sản Indonesia (Partai Komunis Indonesia - PKI). Đảng này được thành lập vào tháng 5 năm 1920 và là tổ chức cộng sản đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Indonesia đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào cách mạng khu vực, góp phần lan tỏa tư tưởng Marxist-Leninist và truyền cảm hứng cho sự thành lập của nhiều đảng cộng sản khác trong khu vực.
Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á xuất phát từ phong trào cánh tả trong tổ chức Sarekat Islam (Liên minh Hồi giáo) tại Indonesia. Ban đầu, những người có tư tưởng tiến bộ trong tổ chức này chịu ảnh hưởng của phong trào cộng sản quốc tế, đặc biệt là từ Liên Xô và các tổ chức công nhân châu Âu. Sau đó, họ thành lập một tổ chức riêng theo tư tưởng cộng sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Indonesia. Đây là đảng cộng sản đầu tiên được thành lập không chỉ ở Đông Nam Á mà còn là một trong những đảng cộng sản sớm nhất tại châu Á.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Indonesia cũng truyền cảm hứng cho sự thành lập của các Đảng cộng sản khác trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930, Đảng Cộng sản Malaysia vào năm 1930, và các tổ chức cộng sản ở Philippines, Thái Lan. Tất cả các đảng cộng sản này đều có chung mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa, tạo nên làn sóng cách mạng mạnh mẽ trong khu vực.
Như vậy, có thể khẳng định rằng Đảng Cộng sản Indonesia chính là Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của phong trào cộng sản khu vực và có ảnh hưởng sâu rộng đến các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tại nhiều quốc gia Đông Nam Á khác.
Đảng Cộng sản đầu tiên được thành lập ở nước nào của Đông Nam Á? (Hình từ Internet)
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 về Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.