Chủ tịch Hồ Chí Minh biết chơi những môn thể thao nào?

Chủ tịch Hồ Chí Minh biết chơi những môn thể thao nào? Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?

Nội dung chính

    Chủ tịch Hồ Chí Minh biết chơi những môn thể thao nào?

    Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc rèn luyện thể dục thể thao để giữ gìn sức khỏe và tinh thần. Trong suốt cuộc đời, Người đã tham gia và khuyến khích nhiều môn thể thao, cả truyền thống và hiện đại.

    Các môn thể thao Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tham gia:

    - Đi bộ: Hồ Chí Minh duy trì thói quen đi bộ hàng ngày để rèn luyện sức khỏe.

    - Leo núi: Người thường leo những ngọn núi cao trong vùng chiến khu Việt Bắc, thể hiện tinh thần kiên cường và sức bền.

    - Bóng chuyền: Trong những năm kháng chiến, Bác cùng cán bộ và chiến sĩ chơi bóng chuyền tại chiến khu Việt Bắc, tạo tinh thần đoàn kết.

    - Thái cực quyền: Năm 1957, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Lưu Hinh, Bác tập Thái cực quyền, một môn võ truyền thống của Trung Quốc, nhằm tăng cường sức khỏe và sự dẻo dai.

    - Cờ tướng: Người yêu thích cờ tướng, coi đây là cách rèn luyện trí tuệ và tinh thần.

    - Võ cổ truyền: Hồ Chí Minh quan tâm và khuyến khích phát triển võ cổ truyền dân tộc, coi đây là phần quan trọng của văn hóa và tinh thần dân tộc.

    Ngoài ra, Bác còn tham gia các hoạt động thể thao khác như bơi lội, bóng bàn và cầu lông. Người luôn coi việc tập thể dục thể thao là cần thiết để duy trì sức khỏe, phục vụ cho công tác và học tập.

    Chủ tịch Hồ Chí Minh biết chơi những môn thể thao nào?

    Chủ tịch Hồ Chí Minh biết chơi những môn thể thao nào? (Hình từ Internet)

    Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ mà Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức là gì?

    Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011 về Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:

    - Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

    - Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).

    - Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.

    - Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

    - Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

    - Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.

    Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam là gì?

    Căn cứ tại tiểu mục 4 Mục II Đề cương ban hành kèm theo Hướng dẫn 175-HD/BTGTW năm 2024 như sau:

    Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 95 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:

    Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

    Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

    Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.

    Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

    Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.

    Chuyên viên pháp lý Hồ Nguyễn Bảo Ngọc
    saved-content
    unsaved-content
    37