Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm nào?
Nội dung chính
Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm nào?
Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm nào là một câu hỏi quan trọng khi tìm hiểu về quá trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm nào? Câu trả lời là vào năm 1919, khi Người đang sinh sống và hoạt động tại Pháp. Đây là giai đoạn Nguyễn Tất Thành bắt đầu tiếp xúc sâu hơn với tư tưởng cách mạng, tìm kiếm con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong thời gian tham gia Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Tất Thành, lúc này lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, đã tích cực hoạt động chính trị. Đặc biệt, năm 1919, Người thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Versailles, yêu cầu các cường quốc công nhận quyền tự do và bình đẳng cho người Việt Nam. Đây là một trong những dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Người.
Tuy nhiên, sau một thời gian hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng nhiều thành viên trong đảng này chưa thực sự quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Chính vì vậy, tại Đại hội Tours năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định đứng về phía Quốc tế Cộng sản III, bỏ phiếu tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng, không chỉ trong sự nghiệp cách mạng của Người mà còn đối với cách mạng Việt Nam sau này.
Như vậy, Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm 1919, và từ đây, Người bắt đầu quá trình tiếp thu tư tưởng Mác - Lênin, mở đường cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Nguyễn Tất Thành vào Đảng Xã hội Pháp năm nào? (Hình từ Internet)
Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc nào và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ bao gồm những gì?
Căn cứ Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 quy định như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình.
Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.