Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên?
Nội dung chính
Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên?
Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên một hiện tượng tự nhiên độc đáo, tạo ra các ngư trường phong phú. Cụ thể, khi dòng biển ấm từ biển Kuroshio (dòng biển nóng) gặp dòng biển lạnh từ biển Oyashio (dòng biển lạnh), sự giao thoa giữa hai dòng nước này tạo ra những điều kiện lý tưởng cho sự phát triển mạnh mẽ của các loài sinh vật biển.
Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên một khu vực giàu dinh dưỡng, bởi các dòng nước lạnh từ Oyashio mang theo nhiều chất dinh dưỡng từ đáy biển lên, trong khi dòng Kuroshio cung cấp nhiệt độ ấm, tạo môi trường thuận lợi cho các loài sinh vật biển phát triển.
Khi các chất dinh dưỡng từ đáy biển được đưa lên bề mặt, chúng thúc đẩy sự phát triển của plankton, thức ăn chính của các loài cá và động vật biển khác. Chính vì vậy, nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên một vùng biển phong phú về sinh vật biển, đặc biệt là các loài cá có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, cá mackerel, và nhiều loại hải sản khác.
Đây là lý do tại sao khu vực này được coi là một trong những ngư trường phong phú nhất ở Nhật Bản, đóng vai trò quan trọng trong ngành thủy sản của đất nước. Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên một hệ sinh thái đa dạng và giàu tài nguyên, thu hút không chỉ các loài cá mà còn là nguồn lợi lớn cho nền kinh tế thủy sản của Nhật Bản.
Nơi dòng biển nóng và lạnh gặp nhau ở vùng biển Nhật Bản thường tạo nên? (Hình từ Internet)
Ô nhiễm môi trường biển từ các hoạt động trên biển được kiểm soát như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 45 Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo 2015 về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển từ các hoạt động trên biển như sau:
- Chất thải nguy hại từ các hoạt động trên biển phải được thu gom, phân loại, lưu giữ, vận chuyển và xử lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Các công trình, thiết bị trên biển sau khi hết thời hạn sử dụng mà không tiếp tục sử dụng phải được tháo dỡ, vận chuyển về đất liền hoặc nhận chìm theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
- Chủ phương tiện vận chuyển, lưu giữ xăng, dầu, hóa chất, chất phóng xạ, chất độc và các chất khác có nguy cơ gây ra sự cố môi trường biển phải có kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường; bảo đảm không làm rò rỉ, thất thoát, tràn thấm ra biển xăng, dầu, hóa chất, chất phóng xạ, các chất độc và các chất khác có nguy cơ gây ra sự cố môi trường.
- Nước thải từ tàu thuyền, giàn khoan, giàn khai thác dầu khí và các công trình, thiết bị khác trên biển; bùn dầu và bùn chứa hợp chất độc hại trong thăm dò, khai thác dầu khí phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi thải ra biển.
- Nước dằn tàu, nước súc, rửa tàu, nước la canh phải được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường, không được pha loãng nhằm đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi thải ra biển.
- Việc thải nước dằn tàu, nước súc, rửa tàu, nước la canh và nước thải từ tàu thuyền thực hiện theo quy định của pháp luật về hàng hải, bảo vệ môi trường, pháp luật có liên quan của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Chất thải rắn phát sinh từ tàu thuyền, giàn khoan, giàn khai thác dầu khí, công trình và thiết bị khác trên biển phải được quản lý chặt chẽ theo quy định của pháp luật; bùn nạo vét luồng hàng hải, cảng biển phải được vận chuyển về đất liền hoặc nhận chìm theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
- Cảng biển phải có hệ thống tiếp nhận và xử lý chất thải sinh hoạt, dầu cặn từ các phương tiện trên biển.
- Chất thải trôi nổi trên biển và ven bờ biển phải được thu gom, phân loại, xử lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan.
Đất hình thành từ hoạt động lấn biển do tổ chức nào quản lý, khai thác?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Luật Đất đai 2024 như sau:
Đất do tổ chức phát triển quỹ đất phát triển, quản lý, khai thác
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, khai thác quỹ đất được hình thành từ các nguồn sau đây:
a) Đất quy định tại khoản 5 Điều 86 của Luật này;
b) Đất thu hồi trong trường hợp quy định tại khoản 26 và khoản 27 Điều 79 của Luật này để đấu giá quyền sử dụng đất;
c) Đất thu hồi theo quy định tại Điều 81, các điểm a, b, c, d khoản 1 và khoản 2 Điều 82 của Luật này tại khu vực đô thị;
d) Đất chuyển giao về địa phương quản lý, xử lý, thu hồi do sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, trừ trường hợp nhà, đất đó được xử lý theo hình thức điều chuyển hoặc bố trí sử dụng vào mục đích của Nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công;
đ) Đất có nguồn gốc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hằng năm mà Nhà nước thu hồi đất giao quản lý;
e) Đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản được trả lại theo quy định trong hợp đồng thuê đất;
g) Đất hình thành từ hoạt động lấn biển sử dụng vốn ngân sách nhà nước;
h) Đất thu hồi trong trường hợp quy định tại khoản 29 Điều 79 của Luật này.
...
Theo đó, Đất hình thành từ hoạt động lấn biển sử dụng vốn ngân sách nhà nước được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, khai thác.