Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nội dung chính
Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc có vai trò to lớn và mang tính quyết định trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Với tư duy nhạy bén, tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt lý luận, tổ chức, ông đã góp phần đưa phong trào cách mạng Việt Nam đi theo con đường chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó thống nhất các tổ chức cộng sản, tạo nên một chính đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện ở ba phương diện chính: chuẩn bị về tư tưởng và lý luận, tập hợp lực lượng cách mạng và trực tiếp thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức được những hạn chế của các phong trào yêu nước đương thời, đặc biệt là sự thiếu đường lối đúng đắn và tổ chức chặt chẽ, dẫn đến thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, ông đã tiếp cận và lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin như một kim chỉ nam để giải phóng dân tộc Việt Nam. Năm 1920, tại Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Đây là một bước ngoặt quan trọng trong tư tưởng và hoạt động của ông, khẳng định sự chuyển biến từ một nhà yêu nước thành một chiến sĩ cộng sản kiên trung. Sau sự kiện này, ông tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam, đặc biệt thông qua tác phẩm Đường Kách mệnh xuất bản năm 1927, trong đó nhấn mạnh vai trò của giai cấp công nhân và sự cần thiết của một chính đảng vô sản để lãnh đạo cách mạng.
Bên cạnh việc truyền bá lý luận, vai trò của Nguyễn Ái Quốc còn thể hiện rõ nét trong việc đào tạo lực lượng cách mạng và xây dựng tổ chức tiền thân cho Đảng Cộng sản.
Năm 1925, ông thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng trong nước. Từ tổ chức này, nhiều nhà hoạt động ưu tú đã trưởng thành và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của phong trào cộng sản Việt Nam sau này.
Dưới ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân ngày càng phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo thống nhất. Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ Quốc tế Cộng sản và mâu thuẫn nội bộ, đến năm 1929, ba tổ chức cộng sản riêng rẽ ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, tạo ra sự chia rẽ trong phong trào cách mạng.
Trước tình hình này, Quốc tế Cộng sản yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất. Đáp lại yêu cầu này, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất tại Cửu Long, Hồng Kông (Trung Quốc) từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930.
Với uy tín và sự lãnh đạo sáng suốt của mình, ông đã thuyết phục đại diện các tổ chức cộng sản đồng ý thống nhất thành một chính đảng duy nhất với tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, ông soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong đó xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng, đặt nền móng cho sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng dân tộc và sự phát triển lâu dài của phong trào cộng sản trong nước.
Như vậy, vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng quan trọng và có tính quyết định. Ông không chỉ chuẩn bị về tư tưởng, lý luận, đào tạo cán bộ mà còn trực tiếp thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất, phù hợp với yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước và sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, với sự lãnh đạo sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc không chỉ dừng lại ở việc thành lập Đảng, mà còn tiếp tục được khẳng định trong quá trình đấu tranh giành độc lập, đưa đất nước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội.
(Nội dung về Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ mang tính chất tham khảo)
Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (Hình từ Internet)
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là gì?
Căn cứ tại Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam 2011 như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
- Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
- Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
- Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
- Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
- Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.