Cho thuê mặt bằng kinh doanh, tính thuế TNCN thế nào?

Chuyên viên pháp lý: Nguyễn Quốc Bảo
Tham vấn bởi Luật sư: Phạm Thanh Hữu
Cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh có phải nộp thuế TNCN hay không? Nếu có thì tính thuế TNCN như thế nào?

Nội dung chính

    Tính thuế TNCN đối với cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh như thế nào?

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư 40/2021/TT-BTC và Điều 9 Thông tư 40/2021/TT-BTC (được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Thông tư 100/2021/TT-BTC), cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh (không bao gồm dịch vụ lưu trú) có doanh thu trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì không phải nộp thuế TNCN, quy định này áp dụng cho cả trường hợp cá nhân chỉ có hoạt động cho thuê mặt bằng kinh doanh và thời gian cho thuê không trọn năm.

    Khi doanh thu trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở lên, cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh có trách nhiệm nộp thuế TNCN theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp bên thuê mặt bằng kinh doanh trả tiền trước cho nhiều năm thì cá nhân cho thuê khai thuế, nộp thuế TNCN một lần đối với toàn bộ doanh thu trả trước. Số thuế phải nộp một lần là tổng số thuế phải nộp của từng năm dương lịch theo quy định. Trường hợp có sự thay đổi về nội dung hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh dẫn đến thay đổi doanh thu tính thuế, kỳ thanh toán, thời hạn thuê thì cá nhân thực hiện khai điều chỉnh, bổ sung theo quy định của Luật Quản lý 2019 thuế cho kỳ tính thuế có sự thay đổi.

    Căn cứ Điều 10 Thông tư 40/2021/TT-BTC, số thuế TNCN mà cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh phải nộp được xác định như sau:

    Số thuế TNCN phải nộp = Doanh thu tính thuế TNCN x Tỷ lệ thuế TNCN 5%

    Trong đó:

    - Doanh thu tính thuế GTGT và doanh thu tính thuế TNCN theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 10 Thông tư 40/2021/TT-BTC.

    - Tỷ lệ thuế TNCN theo hướng dẫn tại Phụ lục I ban hành kèm Thông tư 40/2021/TT-BTC.

    Cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh có trách nhiệm khai thuế chính xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế theo quy định.

    Cho thuê mặt bằng kinh doanh, tính thuế TNCN thế nào?

    Cho thuê mặt bằng kinh doanh, tính thuế TNCN thế nào? (Hình từ Internet)

    Cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh khai thuế TNCN theo phương pháp nào?

    Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Thông tư 40/2021/TT-BTC, cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh (thuộc diện chịu thuế) khi trực tiếp làm việc, kê khai thuế với cơ quan thuế có thể khai thuế TNCN theo từng lần phát sinh kỳ thanh toán (từng lần phát sinh kỳ thanh toán được xác định theo thời điểm bắt đầu thời hạn cho thuê của từng kỳ thanh toán) hoặc khai thuế theo năm dương lịch.

    Cá nhân khai thuế theo từng hợp đồng hoặc khai thuế cho nhiều hợp đồng cho thuê mặt bằng kinh doanh trên một tờ khai nếu tài sản cho thuê tại địa bàn có cùng cơ quan thuế quản lý.

    Thời hạn khai thuế TNCN đối với cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh như thế nào?

    Như đã phân tích trước đó, cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh khi trực tiếp làm việc, kê khai thuế với cơ quan thuế có thể khai thuế TNCN theo từng lần phát sinh kỳ thanh toán (từng lần phát sinh kỳ thanh toán được xác định theo thời điểm bắt đầu thời hạn cho thuê của từng kỳ thanh toán) hoặc khai thuế theo năm dương lịch.

    Căn cứ khoản 3, khoản 4 Điều 12 Thông tư 40/2021/TT-BTC và điểm a khoản 2 Điều 44 Luật Quản lý thuế 2019, thời hạn khai thuế TNCN đối với cá nhân cho thuê mặt bằng kinh doanh trực tiếp làm việc, kê khai thuế với cơ quan thuế được quy định như sau:

    - Đối với cá nhân khai thuế theo từng lần phát sinh kỳ thanh toán: chậm nhất là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế.

    - Đối với cá nhân khai thuế theo năm dương lịch: chậm nhất là ngày 31/01 của năm dương lịch tiếp theo.

    14
    Quản lý: Công ty TNHH THƯ VIỆN NHÀ ĐẤT Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số ..., do ... cấp ngày ... (dự kiến) Mã số thuế: 0318679464 Địa chỉ trụ sở: Số 15 Đường 32, Khu Vạn Phúc, P. Hiệp Bình Phước, TP. Thủ Đức, TP. HCM, Việt Nam Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ