Các xưởng thủ công của nhà nước dưới các triều đại phong kiến Việt Nam còn được gọi là gì?
Nội dung chính
Các xưởng thủ công của nhà nước dưới các triều đại phong kiến Việt Nam còn được gọi là gì?
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, các xưởng thủ công của nhà nước dưới các triều đại phong kiến Việt Nam còn được gọi là "Cục" hoặc "Tượng". Đây là những cơ sở sản xuất quan trọng, chuyên chế tạo các sản phẩm phục vụ triều đình, quân đội và nhu cầu của hoàng gia.
Các xưởng thủ công của nhà nước dưới các triều đại phong kiến Việt Nam thường tập trung tại kinh thành và được tổ chức chặt chẽ. Dưới thời Lý - Trần, các xưởng này có nhiệm vụ chế tạo vũ khí, đóng thuyền, rèn đúc tiền, dệt vải quý hay sản xuất đồ gốm, đồ trang sức. Đến thời Lê sơ, hệ thống xưởng thủ công được hoàn thiện hơn với các đơn vị như Binh tượng cục (sản xuất vũ khí), Kim hoàn tượng (chế tác vàng bạc), Thượng bảo tượng (đúc ấn, tiền đồng).
Dưới triều Nguyễn, các xưởng thủ công nhà nước được gọi chung là "Tượng cục", chịu sự giám sát trực tiếp của triều đình. Các xưởng này chuyên sản xuất vật dụng cung đình, chế tác đồ ngự dụng, đóng thuyền chiến và đúc vũ khí.
Hệ thống xưởng thủ công của nhà nước không chỉ đảm bảo nhu cầu sử dụng trong triều đình mà còn góp phần phát triển kinh tế, kỹ thuật sản xuất và thúc đẩy nghề thủ công truyền thống của Việt Nam.
Các xưởng thủ công của nhà nước dưới các triều đại phong kiến Việt Nam còn được gọi là gì? (Hình từ Internet)
Môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước đúng không?
Căn cứ vào Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Lịch sử được ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT, được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT như sau:
1. Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội, gồm 2 phần: phần bắt buộc đối với tất cả học sinh và phần lựa chọn cho học sinh chọn môn Lịch sử theo định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông.
2. Môn Lịch sử có sứ mệnh giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học đồng thời góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được xác định trong Chương trình tổng thể.
3. Môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, giúp học sinh nhận thức và vận dụng được các bài học lịch sử giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống, phát triển tầm nhìn, củng cố các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, lòng khoan dung, nhân ái; góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại.
4. Môn Lịch sử hình thành, phát triển cho học sinh tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu, nhận thức và trình bày lịch sử trong logic lịch đại và đồng đại, kết nối quá khứ với hiện tại.
5. Môn Lịch sử giúp học sinh nhận thức được giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại, hiểu biết và có tình yêu đối với lịch sử, văn hóa dân tộc và nhân loại; góp phần định hướng cho học sinh lựa chọn những nghề nghiệp như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại giao, quản lí, hoạt động du lịch, công nghiệp văn hóa, thông tin truyền thông,...
6. Chương trình môn Lịch sử hệ thống hóa, củng cố kiến thức thông sử ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn các kiến thức lịch sử cốt lõi thông qua các chủ đề, chuyên đề học tập về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam.
7. Phương pháp dạy học môn Lịch sử được thực hiện trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của sử học và phương pháp giáo dục hiện đại.
Theo đó, môn Lịch sử không chỉ cung cấp kiến thức về quá khứ mà còn góp phần bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc cho học sinh.
Như vậy, môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước.Thông qua việc học lịch sử, học sinh nhận thức rõ hơn về những giá trị truyền thống, những hy sinh của cha ông để bảo vệ và xây dựng đất nước.