Bị hàng xóm chặn lối đi chung thì phải làm sao? Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lối đi chung?
Nội dung chính
Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lối đi chung?
Khi xảy ra tranh chấp về đất đai, nhà nước cũng khuyến khích các bên tự hòa giải trước với nhau hoặc thông qua hòa giải ở cơ sở. Vì vậy, người dân buộc phải thực hiện việc hòa giải tại UBND cấp có thẩm quyền trước khi khởi kiện.
Theo đó, nếu không thể tự hòa giải thì các bên có thể gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để thực hiện hòa giải theo khoản 2 Điều 235 Luật Đất đai 2024.
Đối với trường hợp tranh chấp lối đi chung có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các giấy tờ tại Điều 137 Luật Đất đai 2024, thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án nhân dân được xác định theo cấp, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của các bên, được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Như vậy, Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lối đi chung là UBND cấp xã hoặc người dân cũng có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án để giải quyết tranh chấp lấn chiếm đất khi hàng xóm chặn lối đi chung.
Cách giải quyết khi hàng xóm chặn lối đi chung?
Cách giải quyết tranh chấp đối với lối đi chung và tranh chấp đất đai là khác nhau. Cách giải quyết tranh chấp khi hàng xóm chặn lối đi chung như sau:
(1) Thực hiện hòa giải:
Việc hòa giải trong tranh chấp lối đi chung là điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện. Việc hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định của Điều 235 Luật Đất đai 2024.
Nếu hòa giải không được, UBND xã có thể ra quyết định xử phạt đối với các hành vi gây cản trở hoặc thiệt hại trong việc sử dụng đất của người khác.
Theo quy định tại Điều 16 Nghị định 91/2019/NĐ-CP, việc xây tường rào lấn chiếm lối đi chung gây ảnh hưởng đến việc đi lại của các hộ gia đình khác bị xử phạt từ 05 - 10 triệu đồng và buộc phải buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đường đi.
Gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp đưa vật liệu xây dựng hoặc các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình mà gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với trường hợp đưa chất thải, chất độc hại lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.
3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp đào bới, xây tường, làm hàng rào gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
Lưu ý: Mức phạt trên áp dụng đối với hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện. Trường hợp do tổ chức thực hiện thì phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền quy định đối với cá nhân (khoản 1 Điều 6 Nghị định 91/2019/NĐ-CP)
Như vậy, trên đây là 02 cách thức được Nhà nước khuyến khích khi xảy ra tranh chấp về lối đi chung.
Tuy nhiên, nếu kết quả giải quyết vẫn chưa thỏa đáng, khi bị hàng xóm chặn lối đi chung thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện/tỉnh hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lấn chiếm đất thuộc phần ngõ đi chung.
(2) Đề nghị UBND cấp huyện, cấp tỉnh giải quyết hoặc khởi kiện lên Tòa án
Riêng đối với tranh chấp về lối đi chung, trường hợp đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lên UBND xã nhưng không thể hòa giải, theo quy định tại khoản 2 Điều 236 Luật Đất đai 2024, đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai cách giải quyết tranh chấp như sau:
Cách 1: Khiếu nại tới Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Tòa án nơi có đất. Cụ thể:
Nếu UBND xã cũng không hòa giải được việc hàng xóm chặn lối đi chung ra đường công cộng thì nộp đơn lên cấp có thẩm quyền cao hơn để giải quyết.
Cách 2: Khởi kiện tại Tòa án nơi có đất.
Theo quy định tại Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đối với tranh chấp liên quan đến lấn chiếm lối đi chung thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có đất đang tranh chấp.
Theo đó, trường hợp bị lấn chiếm lối đi chung mà không thể hòa giải được các bên có thể thực hiện việc tố cáo, khởi kiện hành vi lấn chiếm lên Tòa án cấp huyện theo quy định tại khoản 8 Điều 26 Luật Đất đai 2024.
Nếu việc hàng xóm chặn lối đi chung còn gây ra thiệt hại và chứng minh được thiệt hại đó thì chủ sử dụng đất bị thiệt hại hoàn toàn có thể yêu cầu tòa án giải quyết việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra.
Bị hàng xóm chặn lối đi chung thì phải làm sao? Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lối đi chung? (Hình ảnh từ internet)
Quyền về lối đi chung của người sử dụng đất là gì?
Theo khoản 1 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Quyền về lối đi qua
1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, mỗi chủ sở hữu nhà đất sở hữu nhà đất bị vây bọc bởi bất động sản của chủ sở hữu khác nhưng không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng có quyền được yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành ra cho mình một lối đi hợp lý, đảm bảo thuận tiện và ít gây phiền hà cho các bên trên phần đất của họ.
Tuy nhiên, khi yêu cầu mở lối đi qua thì bên yêu cầu mở lối qua vẫn phải có sự đền bù hợp lý cho chủ sở hữu bất động sản mở lối đi qua, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Lưu ý: Nếu bất động sản được chia thành nhiều phần cho nhiều chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì phải dành ra lối đi cần thiết cho người ở phía trong mà không có đền bù. (theo khoản 3 Điều 254 Bộ luật Dân sự 2015)