Ai là nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?

Ai là nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam? Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đúng không?

Nội dung chính

    Ai là nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?

    Nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là Trưng Vương (Trưng Trắc). Hai Bà Trưng, gồm Trưng Trắc và Trưng Nhị, là những nữ anh hùng đầu tiên lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán vào năm 40 SCN. Trưng Trắc - nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, đã cùng em gái Trưng Nhị chiêu mộ nghĩa quân, đánh đuổi thái thú Tô Định, giành lại độc lập cho đất nước. Sau chiến thắng, Trưng Trắc lên ngôi, trở thành nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, cai trị nước ta trong ba năm (40-43).

    Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, đất nước được tổ chức chặt chẽ, quân đội hùng mạnh, nhiều nữ tướng tài giỏi xuất hiện. Tuy nhiên, năm 43, nhà Hán cử Mã Viện kéo quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Do lực lượng chênh lệch, Hai Bà Trưng thất thủ và tuẫn tiết trên dòng sông Hát.

    Tấm gương yêu nước và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, được nhân dân thờ phụng qua nhiều thế hệ, thể hiện sự tự hào về vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân tộc.

    Ai là nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam?

    Ai là nữ vương đầu tiên trong lịch sử Việt Nam? (Hình từ Internet)

    Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đúng không?

    Căn cứ khoản 2 Điều 8 Luật Giáo dục 2019 quy định như sau:

    Chương trình giáo dục
    1. Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của người học; phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục; phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục; cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp học, mỗi cấp học hoặc các môn học, mô-đun, ngành học đối với từng trình độ đào tạo.
    2. Chương trình giáo dục phải bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa, liên thông giữa các cấp học, trình độ đào tạo; tạo điều kiện cho phân luồng, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân để địa phương và cơ sở giáo dục chủ động triển khai kế hoạch giáo dục phù hợp; đáp ứng mục tiêu bình đẳng giới, yêu cầu hội nhập quốc tế. Chương trình giáo dục là cơ sở bảo đảm chất lượng giáo dục toàn diện.
    3. Chuẩn kiến thức, kỹ năng, yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực người học quy định trong chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành sách giáo khoa đối với giáo dục phổ thông; giáo trình và tài liệu giảng dạy đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học. Sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu giảng dạy phải đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục.
    4. Chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; theo niên chế hoặc theo phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ hoặc kết hợp giữa tín chỉ và niên chế đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
    Kết quả học tập môn học hoặc tín chỉ, mô-đun mà người học tích lũy được khi theo học một chương trình giáo dục được công nhận để xem xét về giá trị chuyển đổi cho môn học hoặc tín chỉ, mô-đun tương ứng trong chương trình giáo dục khác khi người học chuyên ngành, nghề đào tạo, chuyển hình thức học tập hoặc học lên cấp học, trình độ đào tạo cao hơn.
    5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, quy định việc thực hiện chương trình giáo dục và việc công nhận về giá trị chuyển đổi kết quả học tập trong đào tạo các trình độ của giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp quy định tại Điều này.

    Theo đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định việc thực hiện chương trình giáo dục, chương trình giáo dục được tổ chức thực hiện như sau:

    - Giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông: Được tổ chức thực hiện theo năm học.

    - Giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học: Có thể thực hiện theo niên chế, theo phương thức tích lũy mô-đun hoặc tín chỉ, hoặc kết hợp giữa tín chỉ và niên chế.

    Như vậy, chỉ giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông bắt buộc theo năm học, còn giáo dục nghề nghiệp và đại học có nhiều hình thức linh hoạt hơn.

    Chuyên viên pháp lý Nguyễn Xuân An Giang
    saved-content
    unsaved-content
    63