Thứ 2, Ngày 28/10/2024

Quyết định 172/QĐ-BTP năm 2012 về Chương trình công tác của ngành tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành

Số hiệu 172/QĐ-BTP
Ngày ban hành 20/01/2012
Ngày có hiệu lực 20/01/2012
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Bộ Tư pháp
Người ký Hà Hùng Cường
Lĩnh vực Bộ máy hành chính

BỘ TƯ PHÁP
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 172/QĐ-BTP

Hà Nội, ngày 20 tháng 01 năm 2012

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC CỦA NGÀNH TƯ PHÁP NĂM 2012

BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP

Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;

Căn cứ Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2012 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2012;

Xét đề nghị của Chánh Văn phòng Bộ,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình công tác của Ngành Tư pháp năm 2012.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Điều 3. Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ, các Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Giám đốc Sở Tư pháp, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

Nơi nhận:
- Như Điều 3 (để thực hiện);
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ (để phối hợp);
- Các Thứ trưởng;
- Thường vụ Đảng uỷ, Người đứng đầu các đoàn thể cơ quan Bộ (để phối hợp);
- Cục CNTT (đưa lên Cổng thông tin điện tử);
- Báo Pháp luật Việt Nam;
- Lưu: VT, TH.

BỘ TRƯỞNG




Hà Hùng Cường

 

CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC

CỦA NGÀNH TƯ PHÁP NĂM 2012
(Ban hành kèm theo Quyết định số 172/QĐ-BTP ngày 20 tháng 01 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)

Năm 2012 và những năm tiếp theo dự báo tình hình kinh tế thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều yếu tố đe dọa sự ổn định và tăng trưởng kinh tế của nước ta. Trong nước, những hạn chế, yếu kém bộc lộ sâu sắc hơn, điều hành kinh tế vĩ mô sẽ gặp khó khăn trong xử lý hài hòa mối quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý. Tình hình và xu hướng nêu trên đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, tập trung, phát huy tối đa sức mạnh nội lực của cả đất nước. Quốc hội ban hành Nghị quyết số 11/2011/QH13 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, trong đó khẳng định tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế.

Trong bối cảnh chung của đất nước, Ngành Tư pháp phải bắt tay vào những công việc mang tính chiến lược, dài hạn với khối lượng công việc ngày càng tăng, yêu cầu về chất lượng, tiến độ công việc ngày càng cao so với những năm qua. Ngành cần tập trung triển khai những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể tháo gỡ những lĩnh vực, địa bàn còn bất cập và ách tắc trong công tác tư pháp ở Trung ương và địa phương, xác định định hướng công tác của Ngành 5 năm 2011- 2015 và một số nhiệm vụ năm 2012 như sau:

I. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC CỦA NGÀNH TƯ PHÁP 5 NĂM 2011-2015

Bám sát Nghị quyết số 10/2011/QH13 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, các nghị quyết, chương trình, kế hoạch của Chính phủ, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững, củng cố an ninh, quốc phòng, Ngành Tư pháp triển khai công tác giai đoạn 2011 - 2015 theo các định hướng chủ yếu sau đây:

1. Thiết thực góp phần thể chế hoá đầy đủ chính sách của Đảng thể hiện tại các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng liên quan đến cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trọng tâm và xuyên suốt 5 năm là tham mưu cho Chính phủ trong việc nghiên cứu, đề xuất các nội dung sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị, lập dự kiến xây dựng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện tốt Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng các luật, pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Tập trung tham mưu hoàn thiện quy trình lập pháp, thu gọn các hình thức VBQPPL thông qua việc xây dựng một luật chung về ban hành VBQPPL. Thực hiện quyết liệt hoạt động rà soát, hệ thống hoá pháp luật, xây dựng bộ pháp điển các quy phạm pháp luật, tiến tới một hệ thống pháp luật đồng bộ, dễ tiếp cận và áp dụng.

2. Phát huy vai trò là cơ quan tham mưu tin cậy của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương trong việc hoạch định chính sách, pháp luật và tư pháp, xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển của đất nước, nhất là phục vụ tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh nhằm đạt kết quả của mục tiêu phát triển bền vững, đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Góp phần tích cực vào việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền con người, hoàn thiện cơ bản pháp luật dân sự, kinh tế, về các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu hệ thống tài chính ngân hàng và tái cơ cấu doanh nghiệp, nhằm tăng tính pháp quyền trong chỉ đạo điều hành. Tổ chức thực hiện có hiệu quả Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về thi hành pháp luật; tập trung kiểm tra, xử lý các VBQPPL, theo dõi thi hành pháp luật trong hoạt động của Ngành và một số lĩnh vực kinh tế - xã hội bức xúc. Tăng cường hiệu quả công tác phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý.

3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả nhằm tạo chuyển biến bền vững trong công tác THADS; phấn đấu đến năm 2015, cơ bản giải quyết tình trạng án tồn đọng; triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ được giao về thi hành án hành chính; tổng kết, đánh giá để triển khai mô hình Thừa phát lại ở một số địa phương có đủ điều kiện. Tiếp tục nghiên cứu để tạo cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc cho việc xây dựng Đề án về mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án.

4. Tăng cường hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản lý các hoạt động hành chính tư pháp, tập trung xây dựng Luật Hộ tịch, bảo đảm để công tác hành chính tư pháp phục vụ đắc lực, đáng tin cậy cho việc hoạch định và thực thi nhiệm vụ quản lý, phát triển nguồn nhân lực trên mỗi địa bàn và trên phạm vi cả nước. Triển khai khoa học và có hệ thống công tác lý lịch tư pháp; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác quốc tịch, nuôi con nuôi, bồi thường nhà nước.

5. Đổi mới tư duy quản lý nhà nước về công tác bổ trợ tư pháp theo hướng xã hội hoá, đồng thời phát huy vai trò tự quản các tổ chức nghề nghiệp luật sư, công chứng, giám định tư pháp; tiến hành nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để đề xuất xây dựng Luật về Bán đấu giá tài sản; tiếp tục triển khai việc thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên tại một số tỉnh, thành phố lớn làm cơ sở cho việc thành lập Hiệp hội công chứng toàn quốc, tiến tới gia nhập Liên đoàn công chứng La – tinh quốc tế. Tập trung thực hiện có hiệu quả Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp và triển khai có hiệu quả Luật Giám định tư pháp.

6. Xây dựng định hướng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp phục vụ quá trình hội nhập quốc tế của đất nước. Nâng cao năng lực, đảm bảo các điều kiện pháp lý để chủ động tham gia đàm phán các điều ước, thỏa thuận quốc tế và giải quyết tranh chấp dân sự, thương mại quốc tế.

7. Xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển Ngành và các lĩnh vực mà Ngành quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Nghiên cứu, rà soát để phân định hợp lý hơn nữa chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tư pháp, nhất là cấp huyện, cấp xã, từ đó hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý phù hợp. Kiện toàn và tăng cường một bước cơ bản chất lượng hoạt động của tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh và doanh nghiệp nhà nước, phấn đấu đến năm 2015, hầu hết các cơ quan chuyên môn của UBND cấp tỉnh có bộ phận chuyên trách làm công tác pháp chế.

[...]