Nghị quyết 01/NQ-CP về giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 do Chính phủ ban hành

Số hiệu 01/NQ-CP
Ngày ban hành 03/01/2012
Ngày có hiệu lực 03/01/2012
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Tấn Dũng
Lĩnh vực Tài chính nhà nước

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 01/NQ-CP

Hà Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2012

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2012

Năm 2011, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ, nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, nền kinh tế nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2011 đạt khoảng 6%; nông nghiệp phát triển ổn định, sản lượng lương thực đạt mức cao nhất từ trước đến nay; sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá; khu vực dịch vụ, du lịch tiếp tục đà phát triển. Xuất khẩu tăng gấp hơn 3 lần so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra; nhập siêu giảm mạnh; bội chi ngân sách nhà nước giảm; các cân đối về tiền tệ, tín dụng được kiểm soát; thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ từng bước ổn định; dự trữ ngoại tệ tăng; tốc độ tăng giá giảm dần; các chính sách an sinh xã hội được quan tâm; đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện; các lĩnh vực xã hội có tiến bộ. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng được tăng cường, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia; công tác đối ngoại tiếp tục đạt được kết quả quan trọng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn một số hạn chế, yếu kém: Sản xuất gặp nhiều khó khăn do giá đầu vào tăng cao, khó tiếp cận vốn, hiệu quả kinh doanh giảm sút; lạm phát, lãi suất tín dụng tuy có giảm nhưng vẫn còn cao; áp lực lạm phát và bất ổn định kinh tế vĩ mô còn lớn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được giải quyết,… đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng và quyết tâm cao hơn nữa của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong thời gian tới. Năm 2012, tiếp tục thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, là năm khởi đầu thực hiện chủ trương đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2012 có ý nghĩa rất quan trọng, vừa bảo đảm giải quyết những khó khăn trước mắt, tạo nguồn lực cần thiết để bảo đảm an sinh xã hội, vừa tạo tiền đề vững chắc góp phần thực hiện cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020.

Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 đã được Quốc hội thông qua là: Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2012 như sau: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6% - 6,5%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 13%; tỷ lệ nhập siêu khoảng 11% - 12% trên tổng kim ngạch xuất khẩu, trong điều kiện cho phép, phấn đấu giảm nhập siêu xuống dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu; bội chi ngân sách phấn đấu dưới 4,8% GDP; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội khoảng 33,5% GDP; chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%. Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị khoảng 4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế đạt 46%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng dưới 16,6%; số giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 21,5 giường. Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 79%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 70%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%.

Để thực hiện có kết quả các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây:

Phần thứ nhất.

NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2012

I. TẬP TRUNG KIỀM CHẾ LẠM PHÁT, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ

1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15% - 17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% - 16%, bảo đảm thanh khoản của các tổ chức tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô.

- Thực hiện các giải pháp khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức tín dụng ưu tiên vốn tín dụng phục vụ các lĩnh vực: nông nghiệp, nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao động, các dự án hiệu quả; kiểm soát tỷ trọng dư nợ cho vay các lĩnh vực không khuyến khích ở mức hợp lý; tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm soát chặt chẽ cho vay bằng ngoại tệ để đảm bảo tăng trưởng tín dụng ngoại tệ phù hợp khả năng huy động và chủ trương hạn chế tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế.

- Điều hành tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường và tình hình cung - cầu ngoại tệ, góp phần khuyến khích xuất khẩu, giảm nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước.

- Thực hiện các biện pháp đồng bộ, hiệu quả để kiểm soát thị trường ngoại tệ và thị trường vàng; phối hợp với Bộ Công an, các cơ quan chức năng, địa phương tăng cường công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hoạt động kinh doanh vàng, thu đổi ngoại tệ trái pháp luật. Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng; thực hiện tốt công tác dự báo và công khai, minh bạch thông tin thị trường tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, vàng; có giải pháp phù hợp để quản lý, kiểm soát được luân chuyển vốn, tín dụng giữa các thị trường này.

2. Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả

a) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Thực hiện các biện pháp thích hợp để tiết kiệm chi, tăng thu ngân sách nhà nước, phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2012 xuống dưới 4,8% GDP. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ và các chính sách khác để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

- Tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước, chống thất thu, thu hồi số tiền nợ đọng thuế, nhất là các khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên, hàng hóa nhập khẩu, chuyển giá. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho cộng đồng xã hội. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc kê khai nộp thuế. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế, chống chuyển giá. Rà soát hoàn thiện cơ chế và cơ sở pháp lý để bảo đảm kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động đặt cược, trò chơi có thưởng. Phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước để ưu tiên giảm bội chi và dành để trả nợ.

- Hướng dẫn và kiểm soát việc thực hiện tiết kiệm, tiết giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, chi phí lễ hội, khánh tiết, hội nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước,…

- Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra các khoản chi trong cân đối ngân sách nhà nước, các khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước; vay về cho vay lại; bảo lãnh vay của Chính phủ; các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước; các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, địa phương. Tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các chế tài xử lý các vi phạm pháp luật về sử dụng ngân sách nhà nước, bảo đảm thực thi luật pháp nghiêm minh. Thực hiện minh bạch hóa chi tiêu của ngân sách nhà nước và đầu tư công.

- Nghiên cứu, trình Chính phủ định hướng, giải pháp cải cách tiền lương khu vực hành chính nhà nước gắn với việc đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công. Bảo đảm kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương; thực hiện chính sách xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia. Quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng kinh phí thực hiện các chương trình, dự án cấp quốc gia, cấp địa phương; các chính sách, chương trình, dự án an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm kịp thời, đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu quả.

- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ và cơ cấu lại nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, bảo đảm nợ trong giới hạn an toàn, giảm thiểu nghĩa vụ nợ và hạn chế rủi ro; hạn chế nợ dự phòng, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và bảo lãnh của Chính phủ; tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay để tạo nền tảng vững chắc cho an toàn tài chính quốc gia. Bố trí nguồn trả nợ các khoản vay nước ngoài đến hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.

b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, cơ quan, địa phương:

- Hướng dẫn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ. Rà soát, sắp xếp danh mục các dự án đầu tư của Nhà nước theo mục tiêu ưu tiên đầu tư; bố trí vốn cho các dự án đã hoàn thành và đã bàn giao, đưa vào sử dụng trước ngày 31 tháng 12 năm 2011 nhưng chưa bố trí đủ vốn, các dự án trọng điểm, cấp bách, hiệu quả, có khả năng hoàn thành trong năm 2012. Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2012. Năm 2012 không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ cho các công trình, dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, quốc phòng, an ninh cấp bách. Kiên quyết điều chuyển hoặc thu hồi vốn đầu tư đối với các công trình, dự án chậm triển khai, không hiệu quả, phân bổ vốn và sử dụng không đúng đối tượng.

- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát các công trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước và có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, bảo đảm tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ.

c) Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan liên quan theo nhiệm vụ được giao tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Kết luận số 37-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2011 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp. Xây dựng, ban hành, thực hiện cơ chế, chính sách thích hợp để từng bước giá dịch vụ công thực hiện theo cơ chế thị trường gắn với chính sách hỗ trợ hợp lý đối với người nghèo, đối tượng chính sách. Đổi mới cơ chế tài chính đối với các lĩnh vực sự nghiệp công theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị gắn với cơ chế đặt hàng và giao nhiệm vụ cụ thể.

[...]