Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Xô Viết

Số hiệu Khongso
Ngày ban hành 10/12/1981
Ngày có hiệu lực 10/10/1982
Loại văn bản Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết
Người ký Phan Hiền,Terebilov V.I
Lĩnh vực Trách nhiệm hình sự,Quyền dân sự

HIỆP ĐỊNH

TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VÀ PHÁP LÝ VỀ CÁC VẤN ĐỀ DÂN SỰ, GIA ĐÌNH VÀ HÌNH SỰ GIỮA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA XÔ VIẾT

Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết.

Xuất phát từ lòng mong muốn phát triển hơn nữa quan hệ hữu nghị trên cơ sở Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết, ký ngày 3 tháng 11 năm 1987.

Cho rằng việc phát triển hợp tác trong lĩnh vực tương trợ tư phát và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự có ý nghĩa quan trọng.

Đã quyết định ký kết Hiệp định này và với mục đích ấy hai bên đã cử đại diện toàn quyền của mình.

Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử:

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Phan Hiền.

Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết cử:

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Terebilov V.I.

Các đại diện toàn quyền, sau khi trao đổi giấy ủy quyền hợp pháp và hợp thức, đã thỏa thuận những điều sau đây:

Chương I

ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 1. Bảo hộ pháp lý

1. Công dân nước này ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của nước ký kết kia sự bảo hộ pháp lý đối với các quyền nhân thân và tài sản mà nước ký kết kia dành cho công dân của mình.

2. Công dân của nước ký kết này được quyền tự do liên hệ với Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan công chứng (sau đây, gọi chung là cơ quan tư pháp) và các cơ quan khác có thẩm quyền về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự của nước ký kết kia. Họ cũng có quyền bày tỏ ý kiến, đề đạt nguyện vọng, đưa đơn kiện và thực hiện những hành vi tố tụng khác trước các cơ quan trên theo những điều kiện mà nước ký kết kia dành cho công dân mình.

3. Những quy định trong các khoản 1 và 2 của Điều này cũng được áp dụng cho vấn đề lao động thuộc thẩm quyền của Tòa án.

4. Những quy định của Hiệp định này cũng được áp dụng tương ứng đối với các pháp nhân của nước ký kết.

Điều 2. Tương trợ tư pháp

1. Cơ quan tư pháp của nước ký kết sẽ tương trợ nhau về tư pháp trong các vấn đề dân sự (kể cả lao động), gia đình và hình sự, theo những quy định trong Hiệp định này.

2. Cơ quan tư pháp của các nước ký kết cũng sẽ tương trợ về tư pháp cho các cơ quan khác của mỗi nước ký kết có thẩm quyền về các vấn đề ở khoản 1.

Điều 3. Cách thức liên hệ

1. Khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan tư pháp của nước ký kết liên hệ với nhau qua Bộ Tư pháp hoặc Viện Kiểm sát của mình, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác; phía Liên Xô là Bộ Tư pháp hoặc Viện kiểm sát của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết; phía Việt Nam là Bộ Tư pháp hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Các cơ quan khác có thẩm quyền về dân sự, gia đình và hình sự gửi ủy thác tư pháp cho nhau qua các cơ quan tư pháp, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác.

Điều 4. Phạm vụ tương trợ tư pháp

Các nước ký kết tương trợ nhau về mặt tư pháp bằng cách thực hiện việc ủy thác tiến hành các hành vi tố tụng riêng biệt đã được pháp luật của nước được ủy thác quy định, như tống đạt giấy tờ, khám xét, thu giữ và chuyển giao các vật chứng, tiến hành giám định, lấy lời khai của các bị cáo, người làm chứng, người giám định, các bên đương sự và những người khác, xem xét vật chứng tại phiên tòa, thi hành các quyết định, dẫn dộ người phạm tội, điều tra hình sự hoặc chuyển giao tài liệu và cung cấp cho các tin tức khác.

Điều 5. Hình thức ủy thác tư pháp

1. Giấy ủy thác tư pháp cần nêu đủ các điểm sau đây:

1) Tên cơ quan ủy thác;

2) Tên cơ quan được ủy thác;

[...]