BỘ
KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------
|
Số: 2200/BKHĐT-KTĐN
V/v giải trình đề xuất dự án
“Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn” vốn ADB
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 03
năm 2017
|
Kính
gửi: Thủ tướng Chính phủ
Triển khai ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ
tướng Chính phủ Phạm Bình Minh tại văn bản số 1775/VPCP-QHQT ngày 28/02/2017 của
Văn phòng Chính phủ về một số ý kiến liên quan đến đề xuất dự án “Hạ tầng cơ bản
phát triển toàn diện các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn”
vay vốn Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); UBND các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn đã có văn bản giải trình số 824/UBND-TH ngày 08/3/2017, số
595/UBND-TH ngày 09/3/2017, số 922/UBND-TH ngày 08/3/2017, số 167/UBND-KTN ngày
07/3/2017). Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức cuộc họp ngày 10/3/2017 để lấy ý
kiến các cơ quan liên quan: Văn phòng Chính phủ; các Bộ Giao thông vận tải,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; UBND các tỉnh
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn nội dung làm rõ những nội dung theo yêu cầu
chỉ đạo (Biên bản cuộc họp đính kèm).
Trên cơ sở ý kiến giải trình của UBND
các tỉnh, ý kiến của các cơ quan liên quan tại cuộc họp ngày 10/3/2017; Bộ Kế
hoạch và Đầu tư xin báo cáo Thủ tướng Chính phủ như sau:
1. Sự cần thiết đầu
tư và các hạng mục của dự án
1.1. Sự cần thiết đầu tư
Các tỉnh Đông Bắc bao gồm 04 tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn là các tỉnh nghèo, tỷ lệ hộ nghèo bình quân ở
mức 18,14% (năm 2014), gấp đôi mức trung bình của cả nước (9,45%). 17/43 huyện
của các tỉnh là huyện nghèo, chiếm gần 1/4 tổng số huyện nghèo của cả nước,
trong đó có 13 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-TTg ngày 05/2/2013 của
Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dù có địa hình tiếp giáp nhưng kết
nối giao thông của 04 tỉnh còn rất hạn chế, chỉ một số quốc lộ chính được đầu
tư nâng cấp; hạ tầng giao thông nội tỉnh giữa các huyện, xã cũng trong tình trạng
yếu kém, hư hỏng và không được nâng cấp thường xuyên. Hệ thống giao thông trong
khu vực Đông Bắc rất lạc hậu do phần lớn các tỉnh là miền núi, vùng sâu và vùng
xa, phân bổ dân cư không tập trung. Trong khu vực không có đường hàng không và
đường thủy nên giao thông gần như hoàn toàn phụ thuộc vào vận tải đường bộ.
Tỷ lệ cư dân nông thôn tại các tỉnh
được sử dụng nước sạch còn thấp, nhiều vùng sâu vùng xa vẫn dựa vào hệ thống nước
tự chảy. Một số huyện còn xảy ra tình trạng thiếu nước (huyện Hoàng Su Phì, Xín
Mần, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang, huyện Văn Quan tỉnh Lạng Sơn). Do các địa bàn này
là vùng nghèo, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế nên khu vực tư
nhân cũng không quan tâm tham gia đầu tư.
Phương thức canh tác nông nghiệp tại
các xã huyện nghèo còn lạc hậu, giá trị gia tăng thấp và thiếu kết nối với thị
trường. 03 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang đã được IFAD hỗ trợ xây dựng cơ sở
hạ tầng cho chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp và đem lại nhiều kết quả đáng
ghi nhận, trong khi đó tỉnh Lạng Sơn chưa được tiếp cận mô hình này.
Bên cạnh đó, một đặc thù riêng của Lạng
Sơn là kinh tế cửa khẩu, du lịch và dịch vụ đóng vai trò là nguồn thu, động lực
chính cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tuy
nhiên, cơ sở hạ tầng còn hạn chế nên không phát huy được toàn diện lợi thế này.
Do vậy, với mục đích nhằm giải quyết
các nút thắt phát triển, hỗ trợ tháo gỡ các khó khăn vướng mắc trong phát triển
của 04 tỉnh Đông Bắc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các tỉnh, cơ quan
liên quan và ADB xây dựng dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh
Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” vay vốn ADB.
1.2. Các hạng mục dự án
Dự án được thiết kế gồm các hợp phần
sau:
- Hợp phần 1 - Hệ thống giao thông
liên kết vùng: Bao gồm xây dựng, cải tạo nâng cấp các tuyến đường nhằm tăng cường
kết nối giữa các địa phương và nội tỉnh, nâng cao năng lực vận chuyển hàng hóa,
giao thương.
- Hợp phần 2 - Cấp nước sinh hoạt và
sản xuất: Tập trung xây dựng các hệ thống cấp nước sạch và sinh hoạt cho các xã
nghèo, nhằm nâng cao đời sống nhân dân và phục vụ phát triển du lịch.
- Hợp phần 3 - Cơ sở hạ tầng cho chuỗi
giá trị nông nghiệp (ARCV): Là hợp phần hỗ trợ riêng cho Lạng Sơn theo mô hình
dự án IFAD đang được triển khai tại các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn.
- Hợp phần 4 - Phát triển cơ sở hạ tầng
kết nối phía Đông Nam thành phố Lạng Sơn: Là hợp phần hỗ trợ riêng cho tỉnh Lạng
Sơn, vay vốn OCR nhằm phát triển cơ sở hạ tầng phía Đông Nam thành phố Lạng
Sơn, đầu tư nâng cấp hạ tầng các tuyến đường ra cửa khẩu nhằm thúc đẩy triển
giao thương, hạ tầng du lịch dịch vụ, tạo cú hích cho đầu tư tư nhân và tạo nguồn
thu cho công tác trả nợ dự án.
Phân bổ
cho các tỉnh cụ thể như sau:
Đơn vị:
Triệu USD
STT
|
Nguồn
vốn
|
Lạng
Sơn
|
Hà
Giang
|
Cao
Bằng
|
Bắc
Kạn
|
Tổng
|
1
|
ADF/COL
|
48,75
|
33,75
|
33,75
|
33,75
|
150
|
2
|
OCR/MOL
|
50
|
-
|
-
|
-
|
50
|
3
|
Vốn đối ứng
|
17,5
|
5,88
|
5,88
|
5,95
|
35,21
|
|
Tổng
|
116,25
|
39,63
|
39,63
|
39,70
|
235,21
|
2. Ý kiến các cơ
quan liên quan
Tại cuộc họp ngày 10/3/2017 về triển
khai ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh, các cơ quan có ý kiến như
sau:
a) Ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn:
Nhất trí sự cần thiết đầu tư dự án. Về
một số hạng mục liên quan đến phạm vi quản lý ngành, Bộ có ý kiến như sau:
- Hạng mục cấp nước: Việc cấp nước sạc
cho sản xuất và sinh hoạt là vấn đề lớn của các tỉnh Đông Bắc. Mặc dù Chính phủ
đã nỗ lực đầu tư cải thiện điều kiện cung cấp nước sạch cho các tỉnh này thông
qua Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nhưng thực
tế vẫn chưa đáp ứng nhu cầu người dân, đặc biệt là các huyện vùng sâu, vùng xa.
Việc xã hội hóa cấp nước nước sạch nhìn chung phù hợp với các khu vực đô thị,
nhưng đối với các xã nghèo vẫn cần sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Hạng mục Cơ sở hạ tầng cho chuỗi
giá trị nông nghiệp cho tỉnh Lạng Sơn: Hiện nay cả 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà
Giang đều đang được IFAD hỗ trợ mỗi tỉnh khoảng 20 triệu USD cho việc nâng cao
giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp, giúp đồng bào vùng sâu vùng xa
tiếp cận tư duy sản xuất mới, đầu tư nâng cao chất lượng của chuỗi giá trị sản
xuất nông nghiệp có kết nối với thị trường. Việc thực hiện dự án đã bước đầu
mang lại kết quả tích cực. Để nhân rộng kết quả của mô hình phát triển nông
nghiệp của IFAD đồng thời đảm bảo việc phát triển toàn diện kinh tế - xã hội
như mục tiêu đặt ra của dự án, hỗ trợ của ADB cho Lạng Sơn là cần thiết.
b) Ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam:
- Ủng hộ sự cần thiết đầu tư và các nội
dung dự án, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các văn bản số 5702/NHNN-HTQT
ngày 27/7/2016, số 6892/NHNN-HTQT ngày 14/9/2016 góp ý đề xuất dự án.
- Về tiến độ tiếp nhận dự án: Hiệp định
dự án dự kiến sẽ ký vào tháng 11/2017, như vậy sẽ cần đàm phán dự án trước ngày
30/6/2017, phê duyệt chủ trương đầu tư trong tháng 4/2017. Như vậy, thời gian
còn lại để tiếp nhận dự án là rất gấp, đề nghị UBND các tỉnh và các cơ quan
liên quan đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án.
c) Ý kiến của Bộ Giao thông vận tải
Nhất trí sự cần thiết và các hạng mục
đầu tư của dự án.
3. Cơ chế tài
chính dự án
- Tại văn bản số 14780/BTC-QLN ngày
20/10/2015 góp ý Hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án đầu tư, Bộ Tài chính đã đề nghị
cơ chế tài chính đối với phần vốn ODA cho dự án đầu tư là vay lại 10%
Tại tờ trình số 635/BKHĐT-KTĐN ngày
23/01/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về đề xuất dự án vốn vay, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cơ chế tài chính sơ bộ của dự án là cấp phát
một phần, vay lại một phần. Tỷ lệ vay lại cụ thể sẽ được xác định tại thời điểm
trình phê duyệt chủ trương đầu tư dự án theo quy định pháp luật về cho vay lại
nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
- Hạn mức vay của các tỉnh: UBND các
tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn đã có báo cáo giải trình Bộ Tài
chính để thẩm định hạn mức vay nợ và khả năng trả nợ của địa phương. Hội đồng
nhân dân (HĐND) các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn cũng đã ban hành
Nghị quyết số 21/NQ-HĐND ngày 9/12/2016, số 85/2016/NQ-HĐND ngày 08/12/2016, số
66/2016/NQ-HĐND ngày 11/12/2016, số 61/NQ-HĐND ngày 08/12/2016 về dự toán ngân
sách địa phương năm 2017, theo đó: Trong năm 2017, UBND các tỉnh Lạng Sơn sẽ bố
trí 381 tỷ đồng; Cao Bằng 175,180 tỷ đồng; Hà Giang 321 tỷ đồng; Bắc Kạn 157,7
tỷ đồng để thanh toán dư nợ về hạn mức cho phép trước khi đàm phán, ký kết khoản
vay.
- Vốn đối ứng: UBND các tỉnh Đông Bắc
tự đảm bảo theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và Quyết định
40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ về nguyên tắc, tiêu chí
và định mức phẩn bổ vốn đầu tư phát triển nguồn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn
2016-2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin báo cáo và
kính trình Thủ trướng Chính phủ xem xét, phê duyệt đề xuất dự án./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- VPCP; Bộ TC, NN&PTNT, GTVT; NHNNVN;
- UBND các tỉnh Lạng Sơn, Hà Giang, Cao Bằng và Bắc Kạn;
- Các vụ; KCHT&ĐT; KTĐP<
- Lưu: KTĐN, VT(L14)
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Chí Dũng
|
BIÊN BẢN CUỘC HỌP
ĐỀ XUẤT DỰ ÁN “HẠ TẦNG CƠ BẢN PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CÁC TỈNH ĐÔNG BẮC:
HÀ GIANG, CAO BẰNG, BẮC KẠN, LẠNG SƠN” VAY VỐN ADB
I. Mục đích cuộc họp:
Triển khai ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ
tướng Chính phủ Phạm Bình Minh tại văn bản số 1775/VPCP-QHQT ngày 28/02/2017 của
Văn phòng Chính phủ về đề xuất dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh
Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” vay vốn Ngân hàng Phát triển
châu Á (ADB), cụ thể:
- Rà soát lại, làm rõ sự cần thiết, nội
dung các hoạt động của dự án; các hoạt động thuộc trách nhiệm hỗ trợ của Chính
phủ, đặc biệt đối với 02 hợp phần 3 và 4 của tỉnh Lạng Sơn.
- Xác định sơ bộ cơ chế tài chính của
dự án, làm cơ sở để tính toán tổng kinh phí Chính phủ vay để cấp phát cho các tỉnh;
khả năng bảo đảm hạn mức vay nợ và khả năng trả nợ của dự án.
II. Thành phần
tham dự:
- Chủ trì cuộc họp: Thứ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư Nguyễn Thế Phương.
- Tham dự cuộc họp: Đại diện Văn
phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đại diện Ủy ban nhân dân UBND các tỉnh: Hà Giang,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Bộ Tài chính do bận công tác khác không tham dự cuộc
họp.
(Danh sách đại biểu tham dự đính kèm)
III. Thời gian và
địa điểm:
- Cuộc họp bắt đầu từ lúc 15:00 -
16:30 ngày 10/3/2017 tại trụ sở Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 6B Hoàng Diệu Hà Nội.
IV. Tài liệu của
cuộc họp:
- Văn bản số 1775/VPCP-QHQT ngày
28/02/2017 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Chính phủ Phạm Bình Minh về đề xuất dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện
các tỉnh Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” vay vốn ADB.
- Văn bản giải trình của UBND các tỉnh
Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn số 824/UBND-TH ngày 08/3/2017, số
595/UBND-TH ngày 09/3/2017, số 922/UBND-TH ngày 08/3/2017, số 167/UBND-KTN ngày
07/3/2017.
V. Nội dung cuộc họp:
1. Khai mạc cuộc họp:
- Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế đối ngoại
Nguyễn Thị Thanh Phương báo cáo về mục đích, nội dung cuộc họp; các vấn đề liên
quan đến nội dung đề xuất dự án “Hạ tầng cơ bản phát triển toàn diện các tỉnh
Đông Bắc: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn” vay vốn ADB.
- Đại diện Văn phòng Chính phủ, Ông Hồ
Anh Tài, chuyên viên Vụ Quan hệ quốc tế thông báo vắn tắt về ý kiến chỉ đạo của
Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh về đề xuất dự án và đề nghị cuộc họp lưu
ý các nội dung sau:
+ Sự cần thiết đầu tư, sử dụng vốn
ODA và vay ưu đãi để hỗ trợ các tỉnh.
+ Hợp phần cấp nước: Khả năng tham
gia của khu vực tư nhân, có thể thực hiện cơ chế vay lại
được không?
+ Hợp phần hạ tầng chuỗi giá trị sản
phẩm nông nghiệp: Lý do đầu tư riêng cho Lạng Sơn.
+ Cơ chế tài chính dự án, thẩm định
năng lực vay trả nợ của các tỉnh: Bộ Tài chính cần có ý kiến chính thức.
+ Hỗ trợ vốn đối ứng: Căn cứ Bắc Kạn
đề xuất hỗ trợ 80%? Cần nâng cao trách nhiệm vay trả nợ của địa phương.
2. Thảo luận:
2.1. Ý kiến của các tỉnh:
Đại diện UBND các tỉnh Hà Giang, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn báo cáo về dự án, tập trung vào các nội dung Phó Thủ tướng
Chính phủ Phạm Bình Minh yêu cầu làm rõ. Ý kiến cụ thể như sau:
a) Đại diện UBND tỉnh Lạng Sơn (Ông
Lý Vinh Quang, Phó Chủ tịch UBND tỉnh):
- Đối với hạng mục cấp nước sạch: Địa
bàn đầu tư là vùng nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên không tại thời
điểm này không thể huy động đầu tư của khu vực tư nhân, việc bán nước sạch thu
phí là không khả thi.
- Đối với hạng mục phát triển chuỗi
giá trị nông nghiệp: Phần lớn kinh phí của hợp phần này (13/15 triệu USD) là nhằm
đầu tư hạ tầng cơ sở cho ngành nông nghiệp (giao thông, thủy lợi nhỏ,...).
- Đối với hạng mục phát triển không
gian xanh: Đây là chiến lược phát triển của tỉnh để thúc đẩy đầu tư tư nhân,
kinh tế dịch vụ du lịch và cửa khẩu. Lạng Sơn sẽ nỗ lực để việc chuẩn bị đầu tư
hợp phần này không làm chậm tiến độ chung của dự án.
b) Đại diện UBND tỉnh Hà Giang (Ông
Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch UBND tỉnh): Hà Giang đã có ý kiến tại văn bản giải
trình số 824/UBND-TH ngày 08/3/2017, theo đó:
- Hà Giang là một trong những tỉnh
nghèo, khó khăn nhất cả nước với tỷ lệ hộ nghèo ở mức cao, do vậy các tiểu dự
án đề xuất đầu tư tại tỉnh Hà Giang là rất cần thiết và phù hợp cho quá trình
phát triển kinh tế xã hội, giảm nghèo của tỉnh.
- Số dư nợ gốc tiền vay thời điểm
31/12/2016 là 638 tỷ đồng, đến ngày 09/3/2017 tỉnh đã hoàn trả là 225,65 tỷ đồng,
số dư nợ còn phải tiếp tục trả trong năm 2017 là 93,35 tỷ đồng để số dư nợ của
tỉnh về mức trần hạn mức theo quy định của Luật NSNN năm 2015 (319 tỷ đồng).
UBND tỉnh Hà Giang cam kết sẽ tiếp tục trả nợ gốc tiền vay số tiền 93,35 tỷ đồng
xong trước ngày 31/3/2017 để Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính có cơ sở thẩm
định dự án.
c) Đại diện UBND tỉnh Bắc Kạn (Bà Đỗ
Thị Minh Hoa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh ):
- Bắc Kạn là tỉnh đặc biệt khó khăn,
cơ sở hạ tầng còn hạn, giao thông đi lại yếu kém, tỷ lệ cư dân nông thôn được sử
dụng nước sạch còn thấp, chủ yếu dựa vào hệ thống nước tự chảy không đảm bảo vệ
sinh, trong khi nguồn ngân sách của tỉnh chủ yếu do ngân sách Trung ương cấp
không đáp ứng được nhu cầu, do đó việc đầu tư dự án là cần thiết.
- Về cơ chế tài chính, căn cứ Quyết định
số 40/2015/QĐ-TTg ngày 14/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định “địa phương
thuộc diện ngân sách Trung ương bổ sung trong cân đối từ 50% trở lên thì được hỗ
trợ tối đa không quá 80% mức vốn đối ứng của dự án”, do đó đề xuất ngân sách
Trung ương hỗ trợ 80% vốn đối ứng của dự án.
d) Đại diện UBND tỉnh Cao Bằng (Ông
Nguyễn Trung Thảo, Phó Chủ tịch UBND tỉnh):
Cao Bằng là một tỉnh miền núi, biên
giới, tỷ lệ hộ nghèo cao chiếm 38,6%. Cơ sở hạ tầng yếu kém, cách xa trung tâm
của cả nước, giao thông đi lại khó khăn. Do vậy, việc tiếp tục được vay các khoản
vay từ nguồn vốn ODA để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là rất cần thiết
và quan trọng. Các tiểu dự án tỉnh Cao Bằng được lựa chọn là các hạng mục thực
sự cấp thiết và chưa được đầu tư bằng các nguồn vốn khác, đáp ứng tiêu chí theo
quy định của ADB và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của địa
phương. Tỉnh Cao Bằng cam kết tiếp tục bố trí nguồn trả nợ trong năm 2017 và các
năm tiếp theo để đảm bảo đúng mức dư nợ của tỉnh theo quy định của Luật ngân
sách Nhà nước năm 2015.
2.2. Ý kiến của các cơ quan liên
quan:
a) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn
Nhất trí sự cần thiết đầu tư dự án. Đối
với 02 hạng mục liên quan đến phạm vi quản lý của Bộ:
- Hạng mục cấp nước: Đây là vấn đề lớn
của các tỉnh Đông Bắc. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực đầu tư cải thiện điều kiện
cung cấp nước sạch cho các tỉnh này thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về
nước sạch và vệ sinh môi trường nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng nhu cầu người
dân, đặc biệt là các huyện vùng sâu, vùng xa. Việc xã hội hóa cấp nước sạch
nhìn chung phù hợp với các khu vực đô thị, nhưng đối với các xã nghèo vùng xa vẫn
cần sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Hạng mục Cơ sở hạ tầng cho chuỗi
giá trị nông nghiệp cho tỉnh Lạng Sơn: Hiện nay cả 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà
Giang đều đang được IFAD hỗ trợ mỗi tỉnh khoảng 20 triệu USD cho việc nâng cao
giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp, giúp đồng bào vùng sâu vùng xa
tiếp cận tư duy sản xuất mới, đầu tư nâng cao chất lượng của chuỗi giá trị sản
xuất nông nghiệp có kết nối với thị trường. Việc thực hiện dự án đã bước đầu
mang lại kết quả tích cực. Để nhân rộng kết quả của mô hình phát triển nông
nghiệp của IFAD đồng thời đảm bảo việc phát triển toàn diện kinh tế - xã hội
như mục tiêu đặt ra của dự án, hỗ trợ của ADB cho Lạng Sơn là cần thiết.
b) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ủng hộ sự cần thiết đầu tư và các nội
dung dự án, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có các văn bản số 5702/NHNN-HTQT
ngày 27/7/2016, số 6892/NHNN-HTQT ngày 14/9/2016 cho ý kiến góp ý về một số nội
dung dự án.
Về tiến độ tiếp nhận dự án: Hiệp định
dự án dự kiến sẽ ký vào tháng 11/2017, như vậy sẽ cần đàm phán dự án trước ngày
30/6/2017, phê duyệt chủ trương đầu tư trong tháng 4/2017. Như vậy, thời gian
còn lại để tiếp nhận dự án là rất gấp, đề nghị UBND các tỉnh và các cơ quan
liên quan đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị dự án.
c) Bộ Giao thông: Nhất trí sự cần thiết
đầu tư và các hợp phần dự án.
VI. Kết luận của
chủ toạ cuộc họp
Sau khi có ý kiến của các cơ quan
liên quan, chủ toạ cuộc họp - Ông Nguyễn Thế Phương, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã kết luận cuộc họp:
- 04 tỉnh Đông Bắc (Hà Giang, Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lạng Sơn) là các tỉnh miền núi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,
hạ tầng kết nối hạn chế. Việc hỗ trợ phát triển toàn diện kinh tế - xã hội cho
các tỉnh sẽ đóng góp rất nhiều cho thực hiện các mục tiêu của chương trình mục
tiêu quốc gia về nông thôn mới đề ra.
- Đối với các hợp phần 3, 4 của tỉnh
Lạng Sơn:
Lạng Sơn là một tỉnh có kinh tế cửa
khẩu phát triển, tuy nhiên theo quy định của Luật Ngân sách phần lớn nguồn thu
này nộp về Trung ương. Chính vì vậy, hiện nay Lạng Sơn vẫn là tỉnh nghèo thuộc
diện Ngân sách Trung ương hỗ trợ 82%.
(i) Về hợp phần 3: Văn bản giải trình
của tỉnh, ý kiến tại cuộc họp đã khẳng định sự cần thiết đầu tư nhằm đảm bảo sự
hỗ trợ toàn diện, giúp Lạng Sơn tiếp cận được mô hình phát triển nông nghiệp mà
03 tỉnh tham gia dự án đã được IFAD đầu tư và mang lại hiệu quả.
(ii) Về hợp phần 4: Văn bản giải
trình của UBND tỉnh Lạng Sơn vẫn khẳng định mong muốn vay 50 triệu USD. Việc
phát triển hạ tầng khu đô thị phía Nam, hạ tầng phục vụ kinh tế cửa khẩu và du
lịch sẽ giúp Lạng Sơn thúc đẩy kinh tế du lịch - dịch vụ là một thế mạnh của tỉnh,
tạo nguồn thu trả nợ cho dự án.
- Về cơ chế tài chính: Cơ chế tài
chính sơ bộ của dự án là cấp phát một phần, vay lại một phần. Cơ chế tài chính
cụ thể cần được các tỉnh phối hợp với Bộ Tài chính xác định trước khi phê duyệt
chủ trương đầu tư dự án
Cuộc họp kết thúc lúc 16:30./.
Thư ký cuộc họp
Trần Ngọc Lân
|
Chủ tọa cuộc họp
Thứ trưởng
Nguyễn Thế Phương
|