Theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam là?
Nội dung chính
Theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam là?
Theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam được xác định là ranh giới ngoài của lãnh hải. Điều này có nghĩa là đường biên giới quốc gia trên biển chính là đường ranh giới 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Đây là giới hạn tối đa theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) mà một quốc gia ven biển có thể xác định là lãnh hải.
Ý nghĩa của biên giới quốc gia trên biển
- Khẳng định chủ quyền lãnh thổ
+ Lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở là vùng biển thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của Việt Nam.
+ Mọi hoạt động của tàu thuyền nước ngoài khi đi qua lãnh hải của Việt Nam phải tuân theo quy định của Việt Nam và luật pháp quốc tế.
- Bảo vệ an ninh, quốc phòng
+ Biên giới quốc gia trên biển là tuyến phòng thủ quan trọng, giúp kiểm soát chặt chẽ hoạt động trên biển, ngăn chặn các hành vi xâm phạm chủ quyền.
+ Lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phòng và các lực lượng chức năng khác có nhiệm vụ bảo vệ khu vực này.
- Phát triển kinh tế biển
+ Khu vực lãnh hải có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế như đánh bắt thủy sản, khai thác dầu khí, phát triển du lịch và dịch vụ hàng hải.
+ Nhà nước quản lý và khai thác hợp lý tài nguyên biển để đảm bảo phát triển bền vững.
Như vậy, theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, biên giới quốc gia trên biển chính là ranh giới ngoài của lãnh hải. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Theo Luật Biển Việt Nam năm 2012, biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam là? (Hình từ Internet)
Lãnh hải và chế độ pháp lý của lãnh hải như thế nào?
Căn cứ Điều 11 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định như sau:
Lãnh hải
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Căn cứ Điều 12 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định như sau:
Chế độ pháp lý của lãnh hải
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
Như vậy, lãnh hải là vùng biển thuộc chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn của Việt Nam. Điều này áp dụng đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong phạm vi lãnh hải, phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).
(1) Quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong lãnh hải
- Nhà nước Việt Nam thực hiện quyền kiểm soát và quản lý toàn diện đối với lãnh hải, đảm bảo an ninh, trật tự và bảo vệ tài nguyên biển.
- Việt Nam có chủ quyền đối với hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải, nhằm bảo tồn di sản văn hóa biển.
- Các phương tiện bay nước ngoài không được phép vào vùng trời trên lãnh hải, trừ khi có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
(2) Quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài
- Tàu thuyền của tất cả các quốc gia đều có quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam.
- Tàu quân sự nước ngoài khi đi qua lãnh hải Việt Nam phải thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
- Việc đi qua không gây hại phải đảm bảo tôn trọng hòa bình, chủ quyền và pháp luật Việt Nam.