Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm nào?
Nội dung chính
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm nào? Quân giải phóng miền Nam gọi là gì?
Ngày 15/02/1961, tại Chiến khu Đ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng, trực tiếp hoạt động trên chiến trường miền Nam; đặt dưới sự lãnh đạo về mọi mặt của Trung ương Đảng, trực tiếp là Trung ương Cục miền Nam và sự chỉ đạo, chỉ huy thống nhất của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, mà thường xuyên là Ban Quân sự thuộc Trung ương Cục (từ tháng 10/1963 là Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh Miền).
Lực lượng này có nhiệm vụ chủ yếu là làm nòng cốt cho toàn dân đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngay sau khi ra đời, Quân Giải phóng miền Nam tập trung xây dựng lực lượng chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, chú trọng phát triển bộ đội chủ lực cơ động.
Sau một năm thành lập, Quân Giải phóng miền Nam xây dựng được 05 trung đoàn ở Đông Nam Bộ và Khu 5 - đơn vị bộ đội chủ lực đầu tiên đặt nền móng cho Quân Giải phóng miền Nam phát triển lớn mạnh.
Các đơn vị vừa xây dựng, vừa đẩy mạnh tác chiến với nhiều trận đánh quy mô nhỏ và vừa, tiêu biểu là trận Ấp Bắc (01/1963) giành thắng lợi lớn, qua đó mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” trên chiến trường miền Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi, đất nước Việt Nam thống nhất, nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc trên phạm vi cả nước đã hoàn thành, sau ngày 30/4/1975. Quân giải phóng miền Nam Việt Nam lại được gọi bằng chính cái tên truyền thống và thống nhất của mình: Quân đội nhân dân Việt Nam.
Như vậy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập vào năm 1961.
Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập vào năm nào? (Ảnh từ Internet)
Kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước quy định ra sao?
Căn cứ Điều 8 Nghị định 145/2013/NĐ-CP thì việc kỷ niệm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước quy định như sau:
(1) Năm lẻ 5, năm khác:
- Tại Hà Nội, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương và thành phố Hà Nội vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Đài Tưởng niệm. Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức các hoạt động này;
- Tại thành phố Hồ Chí Minh, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh viếng các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Hồ Chí Minh;
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương.
(2) Năm tròn:
- Tổ chức lễ kỷ niệm cấp quốc gia:
Tại thành phố Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm;
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước (1 trong 4 chức danh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội), nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, đại diện kiều bào và đại diện lãnh đạo Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm;
Việc mời khách nước ngoài do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định;
Lãnh đạo Đảng, Nhà nước đọc diễn văn kỷ niệm;
- Các hoạt động khác được tổ chức như đối với năm lẻ 5, năm khác.