Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương?
Nội dung chính
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương?
Dưới đây là 03 Mẫu phân tích hoàn chỉnh về bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương:
Mẫu phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương số 1: Nghệ thuật trào phúng và tâm sự chua xót của Trần Tế Xương
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương phản ánh chân thực thực trạng của một kỳ thi Hương vào năm 1897, khi nền học vấn Nho học suy tàn, kẻ bất tài lại đỗ đạt cao. Với giọng điệu trào phúng sắc sảo, tác giả đã vẽ nên bức tranh bi hài về nền giáo dục phong kiến lúc bấy giờ.
Mở đầu bài thơ, Trần Tế Xương tái hiện không khí kỳ thi Hương một cách đầy trớ trêu:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà."
Sự kiện thi cử vốn trang nghiêm nay lại bị lẫn lộn, phản ánh sự thiếu quy củ, báo hiệu một kỳ thi không đáng tin cậy. Đặc biệt, hai câu thực đã vạch trần thực trạng đau xót:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa."
Hình ảnh "sĩ tử vai đeo lọ" và "quan trường miệng thét loa" cho thấy cảnh tượng thi cử hỗn tạp, lộn xộn. Đáng lẽ phải là nơi tuyển chọn nhân tài, kỳ thi lại trở thành nơi kẻ không học cũng có thể đỗ đạt.
Hai câu luận tiếp tục nhấn mạnh sự suy đồi của nền học vấn:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra."
Hình ảnh "quan sứ" và "mụ đầm" xuất hiện giữa trường thi là biểu tượng của chế độ thực dân Pháp thao túng nền giáo dục Việt Nam. Đây là lời mỉa mai sâu sắc về sự mất chủ quyền, khi những kẻ ngoại bang lại có quyền chi phối kỳ thi vốn mang tính quốc gia.
Hai câu kết kết thúc bằng tiếng cười chua chát:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà."
Nhà thơ đặt câu hỏi đầy xót xa: "Nhân tài đâu rồi?" – nền giáo dục suy đồi, liệu còn ai thực sự xứng đáng với danh hiệu khoa bảng? Kết thúc bài thơ, tác giả kêu gọi những người có tâm với đất nước hãy nhìn lại hiện trạng đau lòng này.
Bài thơ không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn thể hiện tâm sự xót xa của một nhà nho chân chính. Trần Tế Xương đã dùng giọng điệu trào phúng để phê phán nền giáo dục suy đồi, đồng thời bộc lộ nỗi niềm bất lực trước thời cuộc đầy biến động.
Mẫu phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương số 2: Hiện thực đau lòng về khoa cử dưới thời thực dân
Trần Tế Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc, thường xuyên phê phán xã hội phong kiến mục nát. Vịnh khoa thi Hương là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, phản ánh thực trạng thi cử rối ren cuối thế kỷ XIX.
Bài thơ mở đầu bằng giọng điệu hài hước nhưng đầy châm biếm:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà."
Lẽ ra việc tổ chức khoa thi phải trang nghiêm, song việc "thi lẫn" lại cho thấy sự cẩu thả, thiếu minh bạch trong hệ thống giáo dục.
Hai câu thực tiếp tục vạch trần cảnh tượng hỗn độn:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa."
Người đi thi thì nhếch nhác, quan trường thì chỉ biết hét lớn mà không đảm bảo trật tự. Điều này thể hiện sự xuống cấp trong thi cử, khi cả kẻ học hành lẫn người cầm cân nảy mực đều không còn giữ được phẩm chất cần có.
Đặc biệt, hai câu luận vẽ nên hình ảnh đau đớn nhất:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra."
Thực dân Pháp đang can thiệp sâu vào giáo dục Việt Nam, thể hiện qua sự xuất hiện của "quan sứ" và "mụ đầm". Những biểu tượng ngoại lai này làm mất đi sự tôn nghiêm của trường thi, biến một sự kiện quan trọng của dân tộc thành trò hề dưới sự giám sát của kẻ ngoại bang.
Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng lời kêu gọi thức tỉnh:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà."
Trần Tế Xương đau xót trước thực trạng suy vong của khoa cử, đồng thời khơi dậy nỗi trăn trở về tương lai đất nước.
Bài thơ không chỉ là một tác phẩm trào phúng mà còn mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó ghi lại một thời kỳ mà nền giáo dục Nho học lụi tàn, phản ánh tâm tư của một nhà nho yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc.
Mẫu phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương số 3: Sự suy tàn của nền giáo dục Nho học qua Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Ông thường sử dụng giọng điệu châm biếm để phản ánh hiện thực xã hội, đặc biệt là sự suy thoái của nền giáo dục phong kiến dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã khắc họa một cách sinh động và chua chát cảnh thi cử rối ren, đồng thời bộc lộ nỗi xót xa của một nhà nho chân chính trước sự lụi tàn của nền Nho học.
Hai câu đề mở đầu bài thơ đã cho thấy một khoa thi đầy lộn xộn:
"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà."
Theo quy định, cứ ba năm triều đình tổ chức một kỳ thi Hương nhằm chọn ra những nhân tài phục vụ đất nước. Tuy nhiên, thay vì tổ chức nghiêm túc, khoa thi năm ấy lại diễn ra một cách thiếu quy củ khi sĩ tử từ trường Nam Định và trường Hà Nội thi chung. Từ "lẫn" trong câu thơ không chỉ mang nghĩa đơn thuần là nhập chung hai trường thi mà còn gợi ý sự hỗn loạn, mất trật tự trong hệ thống giáo dục đương thời.
Nếu như ngày xưa, trường thi là nơi những bậc tài năng đua tranh trí tuệ, thì nay lại trở thành chốn hỗn tạp:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa."
Hình ảnh "sĩ tử vai đeo lọ" gợi lên cảnh tượng nhếch nhác của những người đi thi. Chiếc "lọ" ở đây có thể là lọ đựng mực, lọ đựng cơm nước hoặc thậm chí là những vật dụng mê tín giúp "cầu may" – một hình ảnh phản ánh sự thiếu thực lực của sĩ tử.
Bên cạnh đó, "quan trường miệng thét loa" cho thấy sự quan liêu, thô bạo của những người tổ chức thi cử. Đáng lẽ họ phải là những người nghiêm cẩn, công minh trong chấm thi, thì nay lại chỉ biết quát tháo, thể hiện sự lúng túng và bất lực trước một kỳ thi rối ren.
Hai câu luận vẽ nên hình ảnh đầy châm biếm:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra."
Hình ảnh "lọng cắm rợp trời" vốn gắn liền với sự trang trọng của triều đình, nhưng trong hoàn cảnh này, nó không dành cho bậc hiền tài mà lại được dùng để đón tiếp "quan sứ" – viên chức thực dân Pháp. Không dừng lại ở đó, sự xuất hiện của "mụ đầm" – những phụ nữ Pháp khoác lên mình váy dài lộng lẫy – càng làm nổi bật sự trớ trêu của thời cuộc.
Điều này cho thấy nền giáo dục khoa bảng đã không còn thuộc về người Việt mà đã bị bàn tay ngoại bang chi phối. Khoa thi vốn là nơi chọn người tài cho đất nước, nay lại trở thành một trò hề dưới con mắt giám sát của kẻ thực dân.
Bài thơ khép lại bằng hai câu kết đầy chua xót:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà."
Câu hỏi "Nhân tài đất Bắc nào ai đó?" thể hiện sự mỉa mai, hoài nghi của Trần Tế Xương trước thực trạng khoa cử. Liệu còn ai thực sự xứng đáng với danh hiệu hiền tài? Hay tất cả chỉ là một trò may rủi, nơi kẻ mua danh đỗ đạt, còn người thực học thì bị gạt bỏ?
Câu cuối cùng như một lời kêu gọi đầy nhức nhối: "Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà." Tác giả nhắc nhở người dân hãy nhìn lại hiện thực xã hội, nơi nền giáo dục đã trở thành công cụ của kẻ thống trị, nơi khoa cử đã mất đi giá trị nguyên bản của nó.
Chú ý, nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương? (Hình từ Internet)
Tổ chức giảng dạy phải đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học?
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Điều lệ Trường tiểu học ban hành kèm theo Thông tư 28/2020/TT-BGDĐT quy định như sau:
Nhiệm vụ và quyền hạn của trường tiểu học
1. Công khai mục tiêu, chương trình, kế hoạch giáo dục, điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục, kết quả đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục; tổ chức giảng dạy, học tập và hoạt động giáo dục đạt chất lượng đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
2. Thực hiện giáo dục bắt buộc, phổ cập giáo dục và xóa mù chữ tại địa bàn. Huy động trẻ em đi học đúng độ tuổi, vận động và tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đến trường. Nhận bảo trợ và quản lý các hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục khác thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học theo sự phân công của cấp có thẩm quyền.
3. Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển nhà trường theo các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, gắn với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục đáp ứng mục tiêu, yêu cầu cần đạt theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học.
4. Triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; thực hiện lựa chọn sách giáo khoa theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; triển khai thực hiện sách giáo khoa và nội dung giáo dục của địa phương theo quyết định của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); thực hiện tự chủ chuyên môn trong tổ chức các hoạt động giáo dục tại trường tiểu học.
5. Thực hiện tự kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng giáo dục theo quy định.
6. Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh.
7. Quản lý và sử dụng đất, tài chính và tài sản của nhà trường theo quy định của pháp luật.
8. Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh, các tổ chức và cá nhân trong cộng đồng thực hiện các hoạt động giáo dục. Tổ chức cho giáo viên, người lao động và học sinh tham gia các hoạt động xã hội tại địa phương.
9. Xây dựng môi trường văn hoá - giáo dục trong nhà trường, tham gia xây dựng môi trường văn hoá - giáo dục ở địa phương.
10. Được tiếp nhận các khoản tài trợ, viện trợ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với nhà trường theo quy định của pháp luật.
11. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, việc tổ chức giảng dạy trong trường tiểu học phải đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu cần đạt theo chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.