Hủy bỏ khác gì bãi bỏ? Bãi bỏ Nghị định 168 là thông tin gây hoang mang dư luận?
Nội dung chính
Hủy bỏ khác gì bãi bỏ? Ai được phép bãi bỏ nghị định?
(1) Hủy bỏ khác gì bãi bỏ?
Hủy bỏ và bãi bỏ là hai hình thức xử lý văn bản quy phạm pháp luật nhưng có sự khác biệt rõ rệt về mục đích, hậu quả pháp lý và đối tượng áp dụng.
Tiêu chí | Hủy bỏ | Bãi bỏ |
Mục đích | Phủ nhận hoàn toàn hiệu lực của văn bản từ thời điểm ban hành. | Chấm dứt hiệu lực của văn bản từ thời điểm văn bản bãi bỏ có hiệu lực. |
Đối tượng áp dụng | Áp dụng cho văn bản có khiếm khuyết nghiêm trọng (bất hợp pháp, trái thẩm quyền, vi phạm thủ tục…). | Áp dụng cho văn bản có khiếm khuyết nhẹ hoặc do thay đổi chính sách, thực tế, quy định mới. |
Hậu quả pháp lý | Văn bản mất hiệu lực ngay từ khi ban hành. | Văn bản mất hiệu lực khi văn bản bãi bỏ có hiệu lực. |
Trách nhiệm phát sinh | Có thể có trách nhiệm bồi thường, hoàn trả (đặc biệt đối với văn bản áp dụng pháp luật). | Không phát sinh trách nhiệm bồi thường hoặc hoàn trả. |
Vi phạm pháp luật | Vi phạm pháp luật nghiêm trọng (bất hợp pháp, sai thẩm quyền, thủ tục ban hành). | Vi phạm không nghiêm trọng, có thể do thay đổi chính sách hoặc thực tế. |
Kết luận:
Hủy bỏ là hình thức xử lý quyết liệt hơn, nhằm phủ nhận hiệu lực của văn bản từ lúc ban hành, thường áp dụng cho văn bản có khiếm khuyết nghiêm trọng.
Bãi bỏ là hành động chấm dứt hiệu lực của văn bản nhưng không làm mất hiệu lực ngay lập tức, thường áp dụng khi văn bản không còn phù hợp với thực tiễn hoặc các quy định pháp luật mới.
(2) Ai được phép bãi bỏ nghị định?
Căn cứ theo Điều 12 Luật ban hành văn bản vi phạm pháp luật 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 quy định như sau:
Sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật
1. Văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó hoặc bị đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Văn bản bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo, niêm yết theo quy định.
...
Đồng thời, căn cứ Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 được sửa đổi bởi điểm b khoản 1 Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi 2020 quy định như sau:
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp.
2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.
4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
...
Như vậy, Nghị định chỉ được bãi bỏ bằng Nghị định của Chính phủ.
Hủy bỏ khác gì bãi bỏ? Bãi bỏ Nghị định 168 là thông tin gây hoang mang dư luận? (Hình từ Internet)
Bãi bỏ Nghị định 168 là thông tin gây hoang mang dư luận?
Ngày 26/12/2024, Chính phủ ban hành Nghị định 168/2024/NĐ-CP về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Trừ điểm, phục hồi giấy phép lái xe có hiệu lực thi hành từ 01/01/2025.
Hiện nay, có nhiều nguồn cung cấp thông tin về việc bãi bỏ Nghị định 168. Tuy nhiên, các thông tin này là không có cơ sở và không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Vì vậy, bãi bỏ Nghị định 168 là thông tin gây hoang mang dư luận có thể bị xử phạt theo quy định.
Căn cứ khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP quy định như sau:
Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi sau:
a) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;
b) Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc;
c) Cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn;
d) Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc;
đ) Cung cấp, chia sẻ các tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm mà không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc chưa được phép lưu hành hoặc đã có quyết định cấm lưu hành hoặc tịch thu;
e) Quảng cáo, tuyên truyền, chia sẻ thông tin về hàng hóa, dịch vụ bị cấm;
g) Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia;
h) Cung cấp, chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm.
...
Theo đó, các trang thông tin điện tử có hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin thông tin sai sự thật hay cung cấp, chia sẻ thông tin gây hoang mang trong Nhân dân cụ thể về việc bãi bỏ Nghị định 168 có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Ngoài ra, căn cứ khoản 3 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP thì chủ thể thực hiện hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin gây hoang mang trong Nhân dân về việc bãi bỏ Nghị định 168 còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc gỡ bỏ thông tin theo quy định.
Bên cạnh đó, căn cứ khoản 3 Điều 4 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau:
Quy định về mức phạt tiền và thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức
...
3. Mức phạt tiền quy định từ Chương II đến Chương VII tại Nghị định này được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức, trừ quy định tại Điều 106 Nghị định này. Trường hợp cá nhân có hành vi vi phạm như của tổ chức thì mức phạt tiền bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức.
...
Như vậy, mức phạt tiền về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin gây hoang mang trong Nhân dân về việc bãi bỏ Nghị định 168 nêu trên áp dụng đối với tổ chức, mức phạt tiền đối với cá nhân bằng 1/2 mức phạt tiền đối với tổ chức, tức là từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.