Án lệ số 02 2016 về tranh chấp đòi lại tài sản
Nội dung chính
Án lệ số 02 2016 về tranh chấp đòi lại tài sản
Án lệ số 02/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Khái quát nội dung án lệ số 02 2016 về tranh chấp đòi lại tài sản:
Tình huống án lệ:
Một người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng nhờ người thân trong nước đứng tên hộ. Sau đó, người đứng tên tự ý chuyển nhượng đất và hưởng toàn bộ số tiền mà không trả lại cho người bỏ tiền.
Giải pháp pháp lý:
Tòa án xác định người Việt Nam định cư ở nước ngoài được nhận lại số tiền gốc đã bỏ ra. Phần chênh lệch tăng thêm do đất có giá trị cao hơn phải được xem xét, phân chia dựa trên công sức của người đứng tên hộ. Nếu không xác định được chính xác công sức, thì chia đều cho cả hai bên.
Nội dung của án lệ:
“Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất. Nhưng giấy tờ đứng tên ông Tám, và sau khi nhận chuyển nhượng, ông Tám trực tiếp quản lý, sử dụng, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Do đó, cần xác định số tiền thu được (sau khi trừ phần vốn gốc của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải coi bà Thảnh và ông Tám có công sức ngang nhau để chia.”
Án lệ số 02 2016 về tranh chấp đòi lại tài sản (Hình từ Internet)
Đất đang tranh chấp có được tặng cho không?
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 45 Luật Đất đai 2024 quy định như sau:
Điều 45. Điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất
1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp thừa kế quyền sử dụng đất, chuyển đổi đất nông nghiệp khi dồn điền, đổi thửa, tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư và trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 124 và điểm a khoản 4 Điều 127 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp hoặc tranh chấp đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên, áp dụng biện pháp khác để bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự;
d) Trong thời hạn sử dụng đất;
đ) Quyền sử dụng đất không bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật.
[....]
Như vậy, đất đang tranh chấp không được thực hiện tặng cho quyền sử dụng đất.
Trừ khi tranh chấp đó đã được giải quyết bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản án, quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phán quyết của Trọng tài đã có hiệu lực pháp luật.
Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Sổ đỏ thì giải quyết như thế nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 236 Luật Đất đai 2024 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai cụ thể như sau:
Điều 236. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
[...]
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật này thì các bên tranh chấp được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Như vậy, tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (còn được gọi phổ biến là Sổ đỏ) thì các bên tranh chấp được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
- Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 236 Luật Đất đai 2024;
- Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.